Tản Đà khi mất
đi, trong căn phòng tại 71 Ngã Tư Sở chỉ còn mỗi chiếc giường nát. Còn Trần
Huyền Trân chính là người đã viết ra những vần thơ đắng đót như thế này: “Đã có
lần khói bếp không lên/ Vợ ngược con xuôi túi hết tiền/ Chồng gục cả lòng trên
giấy mực/ Đen ngòm mặt đất tối như đêm” (Đời một nhà văn). Cùng sống trong
cảnh nghèo, hình như những người nghệ sĩ càng thương nhau hơn, hiểu nhau hơn, đồng
cảm với nhau hơn…
TRẦN HUYỀN TRÂN
gặp TẢN ĐÀ, xót TẢN ĐÀ, khóc TẢN ĐÀ
ĐỖ ANH VŨ
Tản Đà (1889 -
1939) và Trần Huyền Trân (1913 - 1989) đều là hai nhân vật nổi danh của thi ca
Việt Nam hiện đại. Tản Đà được Hoài Thanh tôn là vị chủ soái của phong
trào Thơ Mới, là cái gạch nối giữa hai thế kỷ, là người dạo những bản đàn mở đầu
cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ. Tôi đã đọc lại không biết bao nhiêu lần đoạn
viết sau đây của Hoài Thanh, một trong những đoạn văn đầu tiên của “Thi nhân Việt
Nam”: “Nhưng dù sao, với chúng tôi, tiên sinh vẫn là một bậc đàn anh;
chúng tôi không dám xem tiên sinh như một người bạn. Tiên sinh còn giữ được của
thời trước cái cốt cách vững vàng, cái phong thái thung dung. Đời tiên sinh tuy
bơ vơ, hồn tiên sinh còn có nơi nương tựa. Tiên sinh đã đi qua giữa cái hỗn độn
của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ hai mươi với tấm lòng bình thản của một người thời
trước. Những nỗi chật vật của đời sống hằng ngày, những cảnh éo le thường phô
bày ra trước mắt không từng làm bợn được linh hồn cao khiết của tiên sinh. Cái
dáng điệu ngang tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không
có vẻ vay mượn. Cái buồn chán của tiên sinh cũng là buồn chán của một người trượng
phu. Thở than nhưng có bao giờ rên rỉ”. Nếu như Tản Đà là người mở ra
“Thi nhân Việt Nam” thì Trần Huyền Trân chính là người khép lại giai phẩm đặc
biệt này: “Viết đến đây tôi định khép cửa lại, dầu có thiên tài gõ cửa cũng
không mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa: Trần Huyền Trân”.
Bài thơ thứ nhất: “Rót đau lòng ấy vào
đau lòng này”
Không có tài liệu
nào kể lại về lần gặp gỡ đầu tiên của Trần Huyền Trân với Tản Đà. Trần Huyền
Trân cũng như Hoài Thanh, đều kính trọng và coi Tản Đà như một người anh lớn, một
tiên sinh, một người thuộc lớp trước đã có vị trí riêng trong làng thơ, làng
báo.
Chúng ta đành tạm
hình dung về buổi gặp gỡ ấn tượng đầu tiên qua bài thơ Uống rượu với Tản
Đà của Trần Huyền Trân, viết năm 1938, khi Tản Đà đã 49 tuổi (một năm trước
khi ông qua đời) còn Trần Huyền Trân khi ấy mới 25 tuổi.
Có thể phỏng
đoán, người ít tuổi hơn (Trần Huyền Trân) sẽ đến thăm người nhiều tuổi hơn (Tản
Đà) tại nhà của ông. Tôi cứ hình dung và tưởng tượng cuộc tiếp đón của Tản Đà với
Trần Huyền Trân cũng giống như cuộc tiếp đón của Tản Đà với Đinh Hùng cách đó
1-2 năm. Đó là cuộc tiếp đón ở một nơi sơn thủy hữu tình tại quê nhà Bất
Bạt, Khê Thượng, Sơn Tây, ngay bên núi Tản sông Đà, để hằng ngày ngắm cảnh: “Nước
rợn sông Đà, con cá nhảy/ Mây trùm non Tản, cái diều bay”... Những chàng
trai trẻ vừa đến thăm một “đại ca” trong làng viết, vừa thưởng thức cái thú du
ngoạn danh lam thắng cảnh, chẳng cũng tiện cả đôi đường ư? Tản Đà lại rất mến
khách, luôn sẵn lòng giữ chân mời rượu, gọi người nhà mang cá mang tôm vừa kéo
vó khỏi mặt nước sông Đà lên để làm mồi nhắm.
Và thế là cảm hứng
thơ tìm đến với Trần Huyền Trân: “Cụ hâm rượu nữa đi thôi/ Be này chừng sắp
cạn rồi còn đâu/ Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này/
Tôi say? Thưa, trẻ chưa đầy/ Cái đau nhân thế thì say nỗi gì/ Đường xa ư cụ? Quản
chi/ Đi gần hạnh phúc là đi xa đường/ Tôi là nắng - cụ là sương/ Tôi bừng dậy sớm,
cụ nương bóng chiều/ Gió mưa tóc cụ đã nhiều/ Lòng còn gánh nặng bao nhiêu khối
tình/ Huống tôi mái tóc đang xanh/ Vâng, tôi trăm thác ngàn ghềnh còn đi/ Với đời
một thoáng say mê/ Còn hơn đi chán về chê suông đời/ Rót đi, rót rót đi thôi!/
Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu/ Nguồn đau cứ rót cho nhau/ Lời say sưa mới là
câu chân tình”.
Bài thơ trên đã
trở thành một trong những bài thơ hay nhất về uống rượu của nền thơ Việt Nam hiện
đại, được nhiều tửu quán ở Hà Thành treo trang trọng.
Nhà thơ Vũ Quần
Phương đã dành những lời bình rất hay về bài thơ này: “Nói đến rượu, nhiều người
nghĩ đến chuyện hưởng lạc, lại là thơ “tiền chiến” thì càng ngại. Vậy mà, ba lần
rót rượu thì hai lần rót ra nỗi đau đời, một lần nói ra tuổi tác. Cả tiệc rượu
không tiếng cười hể hả bét nhè, chỉ nỗi cảm thông và ý chí. Chuyện rượu không
nói, thậm chí chuyện thơ cũng không nói, chỉ nói chuyện đời, chuyện tình nghĩa
thế hệ. Tôi nghĩ đó là chỗ cao đẹp của hồn thơ Trần Huyền Trân”.
Bài thơ thứ hai: “Đời là thế ấy ta là thế
thôi”
Nhiều người
không biết rằng, sau bài thơ thứ nhất đã trở thành rất nổi tiếng này, Trần Huyền
Trân còn 2 bài lục bát nữa cũng dành riêng cho Tản Đà. Bài lục bát thứ hai cũng
viết trong năm 1938, là nỗi nhớ của thi sĩ họ Trần tới người bạn vong niên nơi
sông Đà núi Tản. Tôi chắc một điều rằng, cả hai thi sĩ của chúng ta đều rất
nghèo. Tản Đà khi mất đi, trong căn phòng tại 71 Ngã Tư Sở chỉ còn mỗi chiếc
giường nát. Còn Trần Huyền Trân chính là người đã viết ra những vần thơ đắng
đót như thế này: “Đã có lần khói bếp không lên/ Vợ ngược con xuôi túi hết tiền/
Chồng gục cả lòng trên giấy mực/ Đen ngòm mặt đất tối như đêm” (Đời một nhà văn).
Cùng sống trong
cảnh nghèo, hình như những người nghệ sĩ càng thương nhau hơn, hiểu nhau hơn, đồng
cảm với nhau hơn: “Mờ mờ mưa luống rau xanh/ Nắng còn thoi thóp như tình tiễn
đưa/ Trông mưa chạnh nhớ đời thơ/ Với người hôm ấy cũng mưa âm thầm/ Người là một
kiếp thi nhân/ Tóc xanh đã nhuộm mấy lần biển dâu/ Nhà người bên một dòng sâu/
Xác xơ khóm trúc, hàng cau lạnh lùng/ Hồn thơ về lánh bụi hồng/ Quyển vàng, tóc
bạc nằm chung một lều/ Có đàn con trẻ nheo nheo/ Có dăm món nợ eo sèo bên tai/
Chừng lâu rượu chẳng về chai/ Nhện giăng giá bút một vài đường tơ/ Nghiên son lớp
lớp bụi mờ/ Mọt ôn tờ lại từng tờ cổ thi/ Phải đây là bóng tôi kia/ Con đò bến
cũ đi về phong ba/ Nhìn tôi người bỗng cười khà/ “Đời là thế ấy - ta là thế
thôi!”/ Tôi giờ ngược ngược xuôi xuôi/ Rót vào lòng khắp tình người hợp tan/
Chiều nay chiều dệt mưa vàng/ Tôi buồn trông bóng nắng tàn trong mưa”.
Tôi cho rằng bài
lục bát này còn hay hơn cả bài trước về độ tài hoa của hình ảnh, câu chữ với những
thi ảnh độc đáo, là sáng tạo riêng của Trần Huyền Trân, đã tạo những ấn tượng mạnh
mẽ cho người đọc, đặc biệt hai câu kết với rất nhiều dư âm.
Thế nên, theo
tôi, Hoài Thanh đã hơi thiếu công bằng khi buông lời nhận xét trong Thi
nhân Việt Nam: “Thơ Trần Huyền Trân không xuất sắc lắm”.
Bài thơ thứ ba: “Nét thơ xóa sổ đoạn trường
ra đi”
Nếu như bài thứ
nhất là gặp gỡ, bài thứ hai là nỗi nhớ thì bài thứ ba, cũng là bài cuối cùng,
là bài thơ viếng nhau, được viết ngay năm sau đó, khi Tản Đà qua đời vào ngày
7-6-1939 (tức 20 tháng 4 năm Kỷ Mão): “Đêm nao sao rụng trên trời/ Cõi đời quạnh
vắng mất người bạn thơ/ Nước non ơi! Mảnh dư đồ/ Mà hồn non nước bây giờ hỏi
đâu?/ Lấy gì mà đổi được nhau/ Hỡi người sương gió mái đầu bấy nay/ Những là tỉnh
tỉnh say say/ Ai say - Ai tỉnh? Lần này là thôi/ Chiều nao tám chín phương trời/
Muôn ngàn người có một người đi qua/ Dở dang này những ngày xưa: Người non nước
hẹn thế cờ nước non/ “Khối tình lớn khối tình con”/ Khối tình bóp bẹp vo tròn vẫn
nguyên/ Lòng thơ lấy rượu làm duyên/ Hồn thơ đủng đỉnh con thuyền An Nam/ Não
nùng chớp biển mưa ngàn/ Thuyền nan cả sóng thuyền nan trở về/ Mai mai, mốt mốt,
kia kia/ Cảnh ngao ngán cảnh, lòng tê tái lòng/ Hôm nao vút cánh chim hồng/
Mình không thẹn bóng, bóng không thẹn mình/ Rầy sao eo óc gia đình/ Men cay
càng gửi bất bình càng cay/ Mịt mờ Nam Bắc Đông Tây/ Đã đầy mộng lớn, đã đầy mộng
con!/ Còn gì là tấm lòng son/ Thân tàn một kiếp, chí mòn bốn phương/ Rồi... gió
sương trả gió sương/ Nét thơ xóa sổ đoạn trường ra đi!/ Giờ đây kẻ ở người về/
Xót nhau mà biết còn gì khóc nhau/ Đời thơ chung một kiếp sầu/ Viếng người gọi
có mươi câu chân tình”.
Bài thơ đầu gồm
20 câu lục bát, bài thứ hai gồm 24 câu lục bát, riêng bài cuối này có dung lượng
nhiều hơn cả với 34 câu lục bát, như một tổng kết về cả đời thơ Tản Đà với nhiều
tâm sự nỗi niềm. Giọng thơ khi buồn bã trầm mặc, khi u uất oán than, khi bi phẫn
đau đớn.
Ta bắt gặp thấp
thoáng trong bài thơ nhiều tác phẩm của Tản Đà như Vịnh bức địa đồ rách,
Thề non nước, Khối tình lớn, Khối tình con, Nói chuyện với bóng... Những câu
chuyện đời, gia cảnh nhà thơ cũng hiện lên với nhiều vất vả lo toan. Dường như
cả Trần Huyền Trân lẫn Tản Đà đều có chung một bi kịch về sự không thỏa
chí.
Cuộc đời của Tản
Đà thì đã dừng lại, nhưng Trần Huyền Trân thì vẫn cần phải sống tiếp. Và rất
may mắn ông còn được chứng kiến nhiều sự kiện trọng đại huy hoàng của dân tộc,
từ bản Tuyên ngôn độc lập 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 cho đến ngày giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đã gần 80 năm
ngày thi sĩ Tản Đà qua đời và cũng gần 30 năm thi sĩ Trần Huyền Trân giã từ cõi
thế (ông mất ngày 22-4-1989 tại Hà Nội), nhưng bao tác phẩm thi ca mà hai thi
sĩ để lại vẫn làm rung động người đọc hôm nay, trong đó có câu chuyện cảm động
về 3 bài thơ mà Trần Huyền Trân viết riêng cho Tản Đà. Bài viết này của tôi, vì
thế, như một nén tâm hương xin tưởng nhớ tới hai bóng người xưa...
Nguồn: An Ninh Thế Giới giữa tháng
10-2018