Từ anh xích lô, qua người công chức, đến nhà khoa học, nhà văn hóa, người nghệ sĩ… đều nuôi lợn tuốt! Ở nhà riêng, ở chung cư, ở nhà trệt, ở nhà cao tầng. Có chuồng và không cần chuồng. Lợn. Lợn sống chung với người, có tư cách và giá trị như người, thậm chí còn hơn, quan trọng hơn người. Bởi lợn là nguồn sống, là cách sống còn duy nhất. Tất cả vì lợn. Không phải người nuôi lợn, mà lợn nuôi người. Lợn là cứu cánh, là mục đích, là lẽ sống của người... Viết được một cuốn sách thật hiện thực về một thời phi lý mà hoàn toàn có thật như thế đã là rất quý. Có một bức tranh xã hội như thế, sinh động, vừa bi vừa hài, thống thiết trong "Chuyện ngõ nghèo" của Nguyễn Xuân Khánh!





“CHUYỆN NGÕ NGHÈO” BỊ BỎ QUÊN 36 NĂM

NGUYÊN NGỌC

Nguyễn Xuân Khánh là tác giả mấy cuốn tiểu thuyết nổi tiếng xuất hiện liên tục trong khoảng mươi năm qua, mặc dầu anh đã lớn tuổi, chứng tỏ sức viết rất khỏe và bền bỉ: Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn, Đội gạo lên chùa … Nhưng ông cũng là một tác giả của một tác phẩm rất đặc sắc, độc đáo, viết cách đây đã 36 năm (1981-82), từng gây xôn xao và khâm phục trong giới cầm bút, thậm chí có thể coi là tác phẩm quan trọng nhất của ông, nhưng lại ít được biết trong công chúng đọc rộng rãi. Đơn giản là vì sách không được xuất bản. Tên gốc của tiểu thuyết là Trư cuồng, cũng có khi được gọi là Porcinomanie trong những anh em quen biết chuyền tay nhau mà đọc lén. Mãi đến năm 2016, nó mới được NXB Văn học và Công ty sách Nhã Nam cho ra đời với một cái tên rất đỗi hiền lành: Chuyện ngõ nghèo.
Gọi là chuyện ngõ nghèo cũng được, vì ấy là chuyện một thời bao cấp kéo dài ngu dốt và kỳ quặc cả nhiều năm sau chiến tranh, tự mình làm khó mình khiến cả xã hội suy kiệt nghèo khốn một cách vô lý, bởi vì có một hệ ý thức chủ trương con người mà giàu thì tất hư hỏng (bắt nguồn từ quan niệm “tư hữu là nguồn gốc của mọi tội ác” chăng?), nghèo mới là tốt, càng nghèo càng trong sạch, càng tốt, tốt nhất. Mọi ngóc ngách để tìm cách sống khá lên một chút đều bị ngăn cấm nghiêm ngặt, là có tội, thậm chí tội hình sự (“Vua Lốp”)… Để sống sót, cả xã hội đổ đi nuôi lợn. Không phải, không chỉ ở nông thôn, nông thôn nuôi lợn là thường rồi. Cả ở thành phố, thậm chí chủ yếu ở thành phố. Đủ thành phần và khắp các thành phố lớn nhỏ, tràn ngập thủ đô. Nhà nhà nuôi lợn, người người nuôi lợn. Từ anh xích lô, qua người công chức, đến nhà khoa học, nhà văn hóa, người nghệ sĩ… đều nuôi lợn tuốt! Ở nhà riêng, ở chung cư, ở nhà trệt, ở nhà cao tầng. Có chuồng và không cần chuồng. Lợn. Lợn sống chung với người, có tư cách và giá trị như người, thậm chí còn hơn, quan trọng hơn người. Bởi lợn là nguồn sống, là cách sống còn duy nhất. Tất cả vì lợn. Không phải người nuôi lợn, mà lợn nuôi người. Lợn là cứu cánh, là mục đích, là lẽ sống của người... Viết được một cuốn sách thật hiện thực về một thời phi lý mà hoàn toàn có thật như thế đã là rất quý. Có một bức tranh xã hội như thế, sinh động, vừa bi vừa hài, thống thiết trong Chuyện ngõ nghèo.
Tuy nhiên Nguyễn Xuân Khánh không dừng ở đó. Ông đi xa hơn, rất xa hơn, vượt xa tính thời sự của sự kiện, chạm đến những điều dữ dội hơn, quyết liệt hơn, thiết yếu và quan trọng hơn nhiều. Ông chỉ ra rằng cái thời đẩy xã hội và con người vào tận cùng khốn khổ, người sống với lợn, lợn sống với người, lợn còn trọng hơn người ấy, đồng thời cũng đánh thức dậy, làm phơi lộ ra điều khủng khiếp hơn: cái chất lợn vốn tiềm ẩn, che giấu trong con người.
Nhân chi sơ, tính bản lợn. Có một con lợn nấp trong con người, mỗi con người. Hoàng, nhân vật chính của ông, một trí thức nhỏ, một anh nhà báo kiêm nhà văn nhỏ nhoi và nghèo, lại không được chính quyền ưa thích, tất nhiên Hoàng cũng phải nuôi lợn, sống với lợn, sống hết mình với lợn, sống còn vì lợn. Cuộc sống với lợn, cùng lợn, vì lợn, khiến anh bàng hoàng nhận ra có bản chất lợn trong bản chất người. Tất nhiên, như trong mọi tiểu thuyết, sự việc cốt lõi bắt đầu bằng một sự cố. Ấy là từ khi, dấn sâu vào nghề lợn, ngoài ba con lợn ỉn vẫn có lâu nay, Hoàng mua thêm một con lợn có đôi mắt giống bò và bộ lông màu hung mà anh đặt tên là con Lợn Bò.
Lúc mới về Lợn Bò bị ba con lợn ỉn ỷ thế chủ nhà lâu năm bắt nạt, phải chịu lép vế, bị chúng khủng bố liên tục, không dám hó hé tranh ăn, chịu ngủ một xó chuồng dơ bẩn nhất. Chỉ đến khi lũ lợn ỉn đã no nê nằm ườn ra ngủ say, nó mới dám lò mò bò ra ăn mót chút gì còn lại… Nhưng nó được cái tính hết sức hám ăn, đã ăn thì ăn cực hăng, vét sạch máng mỗi khi có dịp, và tăng trọng rất nhanh. Nó lớn như thổi. Đến khi đủ to khỏe, nó quay đánh lại ba con lợn ỉn, mà đã đánh là đánh tàn bạo, hung ác, cả hiểm độc nữa. Cuộc chiến tranh trong chuồng lợn bùng nổ, ngày càng khốc liệt…
Cho đến ngày Lợn Bò chính thức lên ngôi, thành chúa tể toàn trị. Chuồng lợn của Hoàng y hệt sân khấu chính trị xã hội ngoài đời, một xã hội toàn trị điển hình, ở đó thống trị luật rừng mạnh được yếu thua, kẻ mạnh có quyền cắt tiết đứa yếu…
Hoàng có hai người bạn thân: Lân, nguyên là chiến sĩ đặc công, thương binh giải ngũ, tự nhận là người nuôi lợn chuyên nghiệp, đương nhiên hiểu biết sâu sắc và suy nghĩ ám ảnh nhiều về lợn, đến mức cuối cùng trở thành loạn trí, rồi điên thật sự… Người bạn thứ hai là Tám, giáo viên sinh học cấp ba, đột ngột bỏ ngang nghề, cũng đương nhiên về nuôi lợn, căm cụi say mê viết một cuốn sách tên là Bách khoa lợn, hay cũng có thể gọi là ‘‘triết lý lợn”, thỉnh thoảng gửi cho Hoàng đọc một đoạn.
Đọc sách bách khoa và triết học của Tám, có lần Hoàng nghiệm: ‘‘Tìm từ nguyên của từ đồ tể thấy gồm tiền tố "đồ" và hậu tố ‘tể’. Riêng hậu tố "tể’' chỉ thấy hiện diện trong hai từ khác: đồ tể và tể tướng. Hóa ra anh làm nghề giết lợn lại có họ hàng gần với bậc chí cao: ông vua và quan đại thần tột bậc. Họ gần gũi nhau về điểm gì? Xét có ba nghề làm vua, làm quan và giết lợn, thì thấy cả ba giống nhau ở chỗ đều có quyền giết chóc kẻ khác. Vua và tể tướng có quyền giết dân, đồ tể có quyền giết lợn. Giết người là một quyền uy to lớn nhất, tối cao nhất trong mọi quyền uy. Suy cho cùng nghề vua quan cũng là một thứ nghề đồ tể, chỉ có khác, đối tượng giết ở đây là con người.’’
Cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh được bố cục thành ba phần. Phần một là những trang ghi chép hằng ngày của anh nhà báo Hoàng bỏ nghề văn chương chữ nghĩa rắc rối về nuôi lợn trong cái xóm nghèo ven đô Hà Nội. Phần này có tên là ‘‘Nhật ký Lợn’’, kể từ chuyện bắt đầu nuôi ba con lợn ỉn, cho đến bước ngoặt mua con Lợn Bò, và quá trình lên ngôi bá chủ của Lợn Bò.
Phần thứ hai là một loạt truyện ngắn kể lại các cơn mê sảng của Hoàng khi anh bị ốm nặng thập tử nhất sinh vì kiệt sức nuôi lợn, lại nhiều lần bị quấy nhiễu bởi an ninh do có nói năng hay viết lách gì đó. Trong các cơn mê sảng ấy thường hiện lên một vương quốc hung bạo mà vị nguyên thủ tối cao hóa ra là chính con Lợn Bò.
Phần thứ ba lại là Nhật ký Lợn sau khi Hoàng vừa qua cơn bệnh nặng. Và cuốn sách kết lại bằng cuộc trò chuyện giữa Hoàng và Linh, con trai anh đang học đại học. Dưới đây là lược thuật cuộc trò chuyện giữa hai cha con. Hoàng hỏi con về tình hình gia đình trong những ngày anh ôm mê man.
‘‘Linh bảo: Bố muốn hỏi con về đàn lợn chứ gì? Bố vẫn chưa hết cơn say mê nuôi lợn ư?
Tôi cũng nói đùa theo:
- Cơn bão, trước khi tan, cũng còn dư lại vài cơn gió giật, nữa là cơn lợn… Hãy còn một chút dư âm đấy Linh ạ.
Linh cúi đầu nói nhỏ:
- Con giải tán cả đàn. Bố ốm, gia đình túng bấn. Mấy con lợn ỉn chưa hết lớn, phải bán cho người ta nuôi tiếp. Còn con Lợn Bò, hôm nọ con phải giết thịt, bán lấy tiền trả nợ và bồi dưỡng cho bố.
Tôi thở dài:
- Hoá ra công cốc. Tiền lãi chăn lợn chỉ đủ để nuôi tôi ốm. Mẹ con cậu phải khổ sở vì tôi.
- Biết làm sao khác được. Bố nghĩ ngợi mà làm gì. Chỉ cốt bố khoẻ hẳn.
- Rồi thì ra sao nhỉ? Hôm qua tao thấy mẹ con mày thì thầm tính toán tiền nong. Nghe lõm bõm, chỉ riêng cái khoản mua giấy bút cho anh em mày đã lên tới trên trăm đồng.
- Mớ rau muống hôm nay còn giá ba đồng. Cái gì cũng đắt… Chính vì vậy nên…
Tôi ngẩng đầu nghe Linh, nhưng con tôi cứ ngập ngừng mãi. Tôi bảo:
- Anh định ý kiến gì? Cứ nói.
Vẻ mặt con tôi trở nên nghiêm trang:
- Chính vì vậy nên, con quyết định đi mổ lợn.
- Anh làm đồ tể?
- Vâng, đồ tể.
Tôi đột nhiên im lặng. Con tôi nhìn tôi thăm dò. Nó có vẻ lo lắng nhưng quyết tâm thuyết phục tôi:
- Con sẽ đi theo chú Hợi làm thêm buổi sáng. Cứ giết mỗi con lợn xong cũng được hai chục bạc. Con đã thử tay nghề lần đầu. Con đã tự tay chọc tiết con Lợn Bò hung dữ, nặng trên một tạ…
Tôi vẫn yên lặng. Trước kia, tôi phản đối đề nghị ấy của Linh; bây giờ tôi cũng không bằng lòng. Song nói thế nào với con tôi nhỉ? Mỗi thế hệ có cách nghĩ, cách giải quyết riêng của mình. Thằng Linh vẫn kiên quyết trình bầy:
- Cả thế giới, bao nhiêu là đồ tể… 
Tôi lắc đầu:
- Đừng dùng số lượng để áp đặt với bố…
- Thế giới hiện đại hoang dã, mà cha vẫn khư khư…
- Con tôi cuồng nhiệt quá. Con nên nhớ rằng, một ông thày tu cuồng nhiệt sẽ dễ dàng biến thành kẻ sát nhân. Bước nhảy đó rất gần.
- Biện luận mà làm gì hở cha. Bởi vì thực tiễn đang cần một giải đáp. Mà cha lại không có lời giải đáp…’’
Cuốn sách khép lại bằng những câu như vậy. Mà vòng tròn lợn với đồ tể thì vẫn chưa khép lại…
Quả thật đáng kinh ngạc, 36 năm trước Nguyễn Xuân Khánh đã viết cho nền văn học của chúng ta một cuốn tiểu thuyết đầy sức nặng, mạnh mẽ, quyết liệt, không chút khoan nhượng và quan trọng như vậy. Cuốn tiểu thuyết ấy đã bị bỏ quên suốt 36 năm.



Nguồn: Người Đô Thị