Vậy là đã tròn ba mươi năm kể từ khi danh họa Bùi Xuân Phái qua đời. Nhưng những kỷ niệm một thuở hàn vi có vui và buồn, có no và đói, có cả vinh và nhục trong niềm vui sáng tạo bất tận của người nghệ sĩ vẫn như những ngọn lửa bùng cháy lên trong tôi không bao giờ tắt. Và rồi, những nỗi niềm tâm sự của ông về nghề lại luôn vang lên trong tôi, thân thiết hơn bao giờ hết: "Nhà văn không ngày nào không viết, thì trong ngành họa cũng vậy thôi. Phải vẽ hàng ngày. Hình như không vẽ luôn, tay nó “cứng” ra. Vẽ nhiều, vẽ cho thuần tay để lúc nào cũng thành điêu luyện và thoải mái, ông Henri Matisse vẽ như chơi là vì ông vẽ rất nhiều. Nên hiểu vẽ với tâm hồn nghệ thuật, chứ không phải vẽ nhiều để… kiếm".




DANH HỌA BÙI XUÂN PHÁI: VẼ NHƯ THỞ

LÊ HUY QUANG

Danh họa Bùi Xuân Phái qua đời ngày 24-6-1988, đến nay vừa tròn 30 mùa thu. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật. Cũng vào dịp Đại lễ Kỷ niệm ngàn năm Thăng Long - Hà Nội 2010; HĐND TP đã quyết định đặt tên phố Bùi Xuân Phái tại khu đô thị mới Mỹ Đình; để vinh danh ông - một nghệ sĩ tài hoa với tình yêu Hà Nội, đã gắn bó cả sự nghiệp sáng tạo hội họa của mình với Thủ đô yêu quý. Đúng như những lời tâm sự của ông trong tập sách “Viết dưới đèn dầu” xuất bản năm 2008: “Hà Nội có rất nhiều vẻ đẹp mà mỗi vẻ đẹp lại thích hợp với mỗi người… Về màu sắc nó mang nhiều màu thời gian… Phố cổ, những căn nhà cổ vào tranh rất dễ đẹp… Có nhiều mảng tường tưởng như là bẩn, không phải đâu. Nó rất đẹp đối với những đối tượng biết nhìn thấy, biết khám phá… những loang lổ, những dấu vết thời gian ấy thêm vào óc tưởng tượng của người nghệ sĩ, sẽ tạo ra những cái đẹp bất ngờ”…

                             


Có những buổi tối giao thời từ mùa thu nắng vàng óng ả đang chuyển dần sang đầu đông heo may sương mù giăng lãng đãng, thả bộ thong dong qua một góc phố cổ của Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến. Bất chợt, nghe một tiếng đàn pi-a-nô từ một ô cửa sổ xa lạ sáng đèn, khẽ khàng dừng lại và ngước nhìn lên… ta bỗng thấy thanh thản đến lạ lùng, bởi những âm thanh kia như làm cho mình trong sạch hơn lên, đánh thức dậy không biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp đẽ đã đi qua của một thời trai trẻ… Và rồi, tự nhiên tôi nhớ đến họa sĩ Bùi Xuân Phái - nhớ căn nhà số 87 phố Thuốc Bắc - mà đầu những năm 70 của thế kỷ trước; mấy anh em nghệ sĩ trẻ chúng tôi vẫn thường quây quần tụ hội, tri âm, tri kỷ với ông để vẽ, để học hỏi về nghề mà những lời trò chuyện tâm tình cởi mở của Bùi Xuân Phái luôn làm cháy bùng lên cảm giác, hoài niệm về tuổi thơ. Về những bông cúc vàng rực mùa thu. Những dạt dào sóng biển trắng xóa của mùa hè. Những hàng cây cơm nguội chọc trời cao im xé. Những cây bàng khẳng khiu thay lá đỏ vào đông. Những nhành hoa lan, hoa đào, hoa mai đón nàng xuân đến; cũng như gọi dậy trong ta những mơ ước, khát vọng tốt đẹp của con người… từ những bức tranh của ông, trong đó có những góc phố cổ Hà Nội. 
Bùi Xuân Phái sinh ngày 1-9-1920 tại Hà Nội (làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, tỉnh Hà Đông cũ) - địa danh là một làng quê với nghề vẽ tranh khắc gỗ dân gian nổi tiếng. Chính vì thế mà ấn tượng tuổi thơ với những gam màu rực rỡ, những hình vẽ kỳ thú gắn với làng quê Việt Nam đã luôn theo suốt ông trong cuộc đời một nghệ sĩ, tạo nên niềm đam mê hội hoạ ngay từ ngày còn thơ bé. Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khoá 15 (1941-1946), cho đến lúc qua đời - Bùi Xuân Phái đã có ngót nửa thế kỷ gắn bó máu thịt với hội hoạ - mà trong đó, hàng trăm góc phố cổ Hà Nội đã làm nên một cụm từ “Phái Phố - Phố Phái” nổi tiếng cả trong và ngoài nước.    

                                           
          
Năm 1996, tròn 8 năm sau khi Bùi Xuân Phái qua đời, tại TP Hồ Chí Minh, đúng vào khoảng chuyển giữa hai mùa; nghe mùa mưa khép lại và mở mùa khô gay gắt nắng. Một chiều chợt mưa chợt tạnh như thế, ngồi góc đường Lê Quý Đôn cùng dăm bẩy anh em văn nghệ, trong nhiều câu chuyện xoay quanh Sài Gòn, Hà Nội; bất chợt, có người nhắc đến họa sĩ Bùi Xuân Phái. Tự nhiên, chúng tôi chuyển sang đề tài Hà Nội… Và rồi, những kỷ niệm từ xa xưa lại hiện về trong ký ức…
Nhớ lại những năm tháng chiến tranh ấy, trên 40 năm đã trôi qua. Những ngày máy bay Mỹ ném bom miền Bắc. Những ngày B52 Hà Nội - An Dương, Bạch Mai, Khâm Thiên. Hồi đó, họa sĩ  Tường Vân từ Hải Phòng về, nhà thơ Lưu Quang Vũ, họa sĩ Chu Hoạch, họa sĩ Bùi Xuân Phái, nhà thơ Phùng Quán, đạo diễn điện ảnh Trần Thịnh và vài ba nghệ sĩ trẻ chúng tôi vẫn lang thang mấy quán rượu phố Tạ Hiện nhập nhoạng lên đèn; cùng dăm bảy anh em Đoàn Kịch Hà Nội. Chúng tôi ngồi nhâm nhi tí rượu “cuốc lủi” và mấy củ lạc luộc, gói lạc rang. Bùi Xuân Phái thường cười nhẹ nhẹ, mặt ửng hồng vì tửu lượng ông vốn rất ít, chỉ để lấy vui với bạn hữu thân tình. Những khi ấy, ông hay nói về hội họa. Ông nói về bột mầu, về sơn dầu, về chì than, về ký họa, về thiết kế mỹ thuật sân khấu, về nghệ thuật chèo và minh họa. Nhưng bao giờ ông cũng  nói về phố. Và quả thật, phố cổ Hà Nội đã gắn bó máu thịt với ông suốt cả một đời cầm bút vẽ.
Bởi thế, anh em trong giới và công chúng yêu hội họa Việt Nam vẫn gọi là Phái - Phố hay Phố - Phái. Và hình như, mỗi khi nhắc đến Hà Nội, có lẽ không thể không nhắc đến họa sĩ Bùi Xuân Phái. Với riêng tôi, nghĩ về tranh Bùi Xuân Phái, ngoài bảng màu ghi ghi, nâu nâu, xám xám trầm buồn và những vạch sáng trắng; tôi còn rất đam mê dăm ba nét chấm phá và những đốm màu da cam nguyên chất rất đỗi tài hoa; đã để lại một cái tên cùng những tác phẩm nghệ thuật đích thực của ông là mãi mãi tươi xanh, bất tử. 
Cũng những năm tháng đó, những buổi tối mùa đông chuyển gió heo may Hà Nội, tôi cùng nhà thơ Phùng Quán, họa sĩ Bùi Xuân Phái lang thang đến nhà nghệ sĩ điện ảnh Trần Trung Tín  ở số 7 phố Nguyễn Biểu gần Hồ Tây. Anh là diễn viên Xưởng Phim truyện Việt Nam, người Nam Bộ tập kết, đã ngoài băm nhưng cứ thích độc thân, chẳng vợ con gì; chuyên đóng những vai Bí thư chi bộ, hay lãnh đạo cơ quan, huyện, xã - nghĩa là toàn những nhân vật chính diện. Nhưng rồi do ngẫu hứng, Trần Trung Tín tìm đến với hội hoạ - suốt ngày đêm quay sang “bôi vẽ”. Vừa vẽ tranh trên các tờ báo đã bỏ đi, hoặc trên bìa sách vở học sinh, trên cả các mảng tường nhà ở - bằng than, bằng bút chì, bút bi, bột màu, rồi cả sơn dầu của anh em họa sĩ mang đến cho… Anh vẽ thâu đêm suốt sáng - quên ăn, quên ngủ, vẽ như lên đồng… chỉ với một thể loại là tranh “trừu tượng” có đề tài tình yêu, mùa thu, chim hòa bình, em và súng. Bốn anh em chúng tôi quây quần vừa ngâm nga thơ phú, vừa vẽ, vừa nhâm nhi chén rượu cuốc lủi, vài hạt lạc rang, lưng cơm nguội rang lên đỡ đói lòng. 
Những lúc đó, Bùi Xuân Phái lại hào hứng ký họa chân dung tôi, Trần Trung Tín và Phùng Quán; cũng như ông phác họa dăm ba nét phố cổ trên bao thuốc lá, trên cả vỏ bao diêm, nghĩa là trên tất cả những gì có thể vẽ được - vì ngày ấy giấy vẽ còn hiếm… Sau này, đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nghệ sĩ Trần Trung Tín đã trở về Sài Gòn - anh lấy vợ, và vẫn vẽ, cả làm thơ rồi đi đạp xích lô - mỗi khi vào Sài Gòn, có ngày anh chở tôi trên xích lô đến nhà bạn bè nhậu từ trưa đến tối mịt…

                                        


Cho đến hôm nay, nhiều người anh, người bạn, những văn nghệ sĩ thực sự tài hoa, thân thiết một thời của tôi đã đi xa mãi mãi... Thi thoảng, có lúc đi qua số 7 phố Nguyễn Biểu - Quán Thánh - những kỷ niệm vui buồn thời chiến tranh lại hiện về thật là rõ nét. Bởi, ngày ấy tôi mới ngoài hai mươi, còn hồn nhiên, vô tư, trong sáng; có những điều mà mình tự chiêm nghiệm, tự suy ngẫm, mới hiểu ra để thấm thía, để đắng cay và cả ân hận nữa, nói như thi hào Nguyễn Du: “Trải qua một cuộc bể dâu/Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”…    

Vậy là đã tròn ba mươi năm kể từ khi danh họa Bùi Xuân Phái qua đời. Nhưng những kỷ niệm một thuở hàn vi có vui và buồn, có no và đói, có cả vinh và nhục trong niềm vui sáng tạo bất tận của người nghệ sĩ vẫn như những ngọn lửa bùng cháy lên trong tôi không bao giờ tắt. Như những bức tranh Phố - Phái vẫn còn mãi với thời gian, mà Giải thưởng Hồ Chí Minh đã vinh danh ông một cách xứng đáng.  Một đường phố ghi tên Bùi Xuân Phái bình yên và trân trọng. Một Giải thưởng về văn học nghệ thuật mang tên Bùi Xuân Phái. Và rồi, những nỗi niềm tâm sự của ông về nghề lại luôn vang lên trong tôi, thân thiết hơn bao giờ hết: "Nhà văn không ngày nào không viết, thì trong ngành họa cũng vậy thôi. Phải vẽ hàng ngày. Hình như không vẽ luôn, tay nó “cứng” ra. Vẽ nhiều, vẽ cho thuần tay để lúc nào cũng thành điêu luyện và thoải mái, ông Henri Matisse vẽ như chơi là vì ông vẽ rất nhiều. Nên hiểu vẽ với tâm hồn nghệ thuật, chứ không phải vẽ nhiều để… kiếm".