Trường Sơn thực sự bước vào thời kỳ biết tự làm
dáng. Nhớ mãi màu vàng ấm áp, gợi nhớ màu rơm rạ ở quê nhà của những mái lán lợp
lá trung quân. Suốt ngày làm bạn với màu xanh bạt ngàn của rừng cây, vách núi…xế
chiều về tới trạm nhìn thấy màu rộm vàng, nghe thấy tiếng gà cục tác, tiếng bầy
lợn rúc máng, bỗng thấy lòng nhẹ nhõm, thênh thang hơn. Nơi nào không kiếm nổi
lá trung quân, thì vào rừng kiếm bương, luồng chẻ đôi, xếp khúc sấp ấp khúc ngửa
làm ngói. Ngày mưa, nước từ mái ngói bương, luồng đổ xuống trong vắt, trong veo.
THUỞ CON GÁI LÊN TRƯỜNG SƠN
TÔ HOÀNG
Sáu mươi năm trước, vào cái thuở ông Võ Bẩm cùng đồng
đội mò mẫm tìm một con đường trên đỉnh Trường Sơn để có thể chuyển gạo đạn,
chuyển quân từ Bắc vào Nam, trong đạo quân ra đi ngày ấy chắc chắn không thể có
những cô gái mười tám, đôi mươi. Nhưng mười năm trôi qua, kể từ sau cuộc Tấn
công Tết Mậu thân ( 1968), trên đỉnh Trường Sơn đã xuất hiện những mái tóc dài,
những bờ vai tròn lẳn, những tiếng cười từ rất xa cũng dễ nhận ra: Những cô gái
giao liên, nuôi quan, y tá, coi kho, lắp đặt đường ống dẫn dầu… thuộc biên chế
của đoàn 559 đã được điều tới tận Binh trạm 47, nằm nơi ranh giới Việt – Lào –
Campuchia. Trong dòng quân đi vào bổ sung cho các chiến trường lại cũng đã có mặt
chị em thuộc nhiều ngành nghề y tế, giáo dục, bưu điện, văn công, nhà báo…Từ
các chiến trường đi ngược ra Bắc cũng đông vui bóng chị bóng em về hậu phương lớn
để đi học, chữa bệnh, để gặp gỡ hợp đồng công việc giữa trong này ngoài ấy…
Chiến tranh chưa biết đến khi nào mới kết thúc,
thành ăn ở sao cho đàng hoàng, tiện lợi, sạch đẹp đã là một nhu cầu. Có những “
bóng hồng “ nơi này, nơi kia thì sự gọn gàng và nhu cầu làm đẹp càng trở nên tự
nhiên hơn…
Trường Sơn thực sự bước vào thời kỳ biết tự làm
dáng. Nhớ mãi màu vàng ấm áp, gợi nhớ màu rơm rạ ở quê nhà của những mái lán lợp
lá trung quân. Suốt ngày làm bạn với màu xanh bạt ngàn của rừng cây, vách núi…xế
chiều về tới trạm nhìn thấy màu rộm vàng, nghe thấy tiếng gà cục tác, tiếng bầy
lợn rúc máng, bỗng thấy lòng nhẹ nhõm, thênh thang hơn. Nơi nào không kiếm nổi
lá trung quân, thì vào rừng kiếm bương, luồng chẻ đôi, xếp khúc sấp ấp khúc ngửa
làm ngói. Ngày mưa, nước từ mái ngói bương, luồng đổ xuống trong vắt, trong veo.
Lá sả, bồ kết ở rừng tìm đâu chẳng ra. Lính tráng kháo nhau, thỉnh thoảng bưng
cho em một nồi nước lá nấu bằng thứ nước mưa ấy để em gội đầu, em sẽ như chú
sáo quen ăn cơm trộn muối rồi, có mở lồng cũng đố dám bay…Đường xuống suối cũng
bắc lan can tre nứa em vịn tay, nơi rửa mặt đánh răng cũng lát thêm tấm nứa đan
để em giữ bàn chân cô Tấm cho trắng, cho sạch mãi. Cái bàn, cái ghế được thưng
mây. Những cậu khéo tay còn đóng được cả tủ để đầu giường tặng em làm nơi đặt
gương, lược. Vài năm trước, chiếc bọc võng chỉ đơn giản bằng miếng vải dù pháo
sáng lót vòng phía dưới lưng cho ấm, phủ qua võng vừa như chăn đắp vừa để chống
muỗi. Lính chiến trường từ phía Nam ra, từ đồng bằng lên mang theo những cái bọc
võng nhuộm đủ thứ màu: Xanh nõn chuối, mỡ gà, tím Huế, xanh mạ non, phớt hồng,
hồng thắm, tím hoa cà…Chiều chiều quân về nhập trạm, đi ngang qua bãi khách cứ
ngỡ đi ngang qua nơi tiên giáng trần.Nhờ cánh lái xe mua thuốc nhuộm mãi ngoài
Hà Nội cũng nấu cũng khoắng đều, nhưng nhúng tấm vải dù vào, thuốc cứ trôi truội
khỏi mặt vải. Hỏi thăm, lính chiến trường nhún vai đầy bí ẩn. Đành phải lục tung
ba lô có thứ gì quý mang ra đổi hết, để trao vào tay em tấm bọc võng màu tím,
màu hồng đào, màu thiên lý..như ý em ưng.Mãi sau này mới hay, lấy trái pháo
sáng Mỹ, đem đốt thành tro khuấy trong nước làm thuốc nhuộm: Trái pháo phụt lên
trời màu gì, tấm vải dù sẽ quyện đúng màu đó…
Đấy là những gì chỉ được nghe kể lại thôi. Cánh lính
đi vào chúng tôi ào ào cuốn qua mỗi ngày mỗi trạm lần hồi cũng phải tìm ra cách
tỏ tình cảm với chị em theo kiểu của mình. Vừa tới trạm, chưa kịp mắc võng nhưng
phải đáo ngay một vòng để thông báo cho nhau hay trong trạm cả thảy là mấy em,
có em nào xứng đáng là “nàng Kiều” không. Nước da mai mái xanh, cặp môi không
còn mang sắc đỏ, mớ tóc đã bắt đầu xác khô, nhưng ánh mắt ấy, nụ cười kia ở trạm
nào mà chả tìm thấy vài ba em thân quen cứ như thuở ngồi cùng bàn, học cùng lớp.
Chỉ thoáng sau, những cha lém lỉnh nhất đã tìm ra “đồng hương”. Không phải là
người cùng làng, cùng xã, cùng huyện thì cùng tỉnh, cùng dân khu 3, khu 4- đã
chết ai? Ngồi với nhau một lát, lân la trò chuyện một lát y như rằng tìm ra khối
điều là sở thích chung. Thích môn toán hơn môn văn, thích giọng ca của Bích
Liên, giọng ngâm thơ Linh Nhâm, đã từng đọc “Anna Karenina”, “Bài ca sư phạm”,
truyện ngắn tuyệt vời của Pautovsky… Sau bữa cơm chiều,tối sập xuống, đom đóm
bay tán loạn ngoài rừng, làn gió cuối thu ào ào chạy dưới thung sâu, phả hơi
giá lạnh luồn qua vách lán. Đã cảm thấy một đêm ngắn ngủi sẽ qua đi rất mau.
Trong quầng sáng của chao đèn vặn nhỏ ngọn, anh chép để lại cho em mấy bài thơ
anh thích, em ghi vào sổ anh mấy bài hát mới em vừa thuộc qua buổi dạy hát trên
đài. Lục lọi tận dưới đáy ba lô còn chiếc phong bì, tập pơluya viết thư, con
tem nào anh trao cả cho em. Em lặng lẽ nấu cho anh chậu nước ấm, bỏ thêm vài hạt
muối để ngâm chân, vá cho anh miệng túi áo bị rách sờn, dặn dò anh uống thuốc
phòng sốt rét cho đều, không được đánh cá ngoài suối bằng bộc phá... Có nhiều
khi trái tim bắt đầu tăng nhịp trong lồng ngực, ánh mắt nhìn đã phải né tránh
nhau, như một quy định từ trước, không ai thốt lời thề bồi với ai, không ai xin
ai một dòng địa chỉ. Bao giờ, biết đến bao giờ anh gặp lại em đây? Liệu anh và
em có còn sống để tìm về quê hương nhau mà nhận mẹ cha, anh chị, bà con họ
hàng, xóm giềng của đôi bên?
Một đồng đội thông minh láu lỉnh của tôi vào phút
chia tay như thế đã bảo người bạn gái nhắm mắt lại và xòe bàn tay ra. Cậu ta
rút bút viết chữ gì đó và buộc cô gái hứa sống hứa chết khi cậu ta rời xa trạm
mới được xòe tay ra đọc. Thằng quỷ, mày gieo rắc thương nhớ, khổ đau cho cô gái
tội nghiệp ấy à ? Cậu lính ngửa cổ cười hơ hơ thanh minh: Cậu ấy đã viết tên
tên mình, tên cô ta trong lòng bàn tay nóng ấm kia, giữa hai cái tên cậu ta đặt
một dấu cộng, sau hai cái tên đặt một dấu bằng, phép cộng ấy sẽ đưa đến con số
tổng là hai chữ “ muôn năm”. Cũng dễ đoán ra cô gái sẽ cười, sẽ khóc, sẽ khóc rồi
sẽ cười, nhưng trong lòng mãi mãi vẫn là những cảm xúc thật đẹp.
Tôi khờ khạo, vụng về, chắc ông Trời thương nên đã
ban tặng cho tôi một kỷ niệm Trường Sơn để nhớ đời. Trời đổ mưa từ sáng sớm.
Khi chúng tôi đến triền dốc cỏ gianh thì chân người lê theo bùn đất đi qua đã khiến
những búi cỏ ngả rạp, láng ướt, bùn đỏ trở nên trơn nhẫy. Vừa lúc ấy có một
đoàn các cô gái từ chiến trường ra đang ngược dốc đi lên. Những bộ bà ba đen
may bằng vải tốt bó chặt lấy những bờ vai thon thả, những tấm lưng eo, những
chiếc mũ tai bèo ướt sũng nước vẫn cong cong một đường vành duyên dáng. Các em
xinh tươi, yêu kiều quá, em nào em nấy đều đeo bên hông một khẩu K.59, loại
súng ngắn ấy chỉ dành cho cán bộ tiểu đoàn trở lên. Người vượt dốc, người đổ dốc
ồn ã tiếng cười, lời thăm hỏi nhau. Tôi cứ nghếch mắt ngắm nhìn các em như thế,
bỗng trượt chân ngã nhoài. Như một bản năng, tôi quờ tay sang bên để bấu víu lấy
một gốc cây hay búi cỏ. Nào ngờ tôi đã nắm lấy bắp chân một em đi ngược lên. Thế
là tôi đã kéo em lăn xuống dốc theo mình. Trên dốc, dưới dốc tiếng cười rộ lên,
lây lan. Tôi đỡ em đứng lên, cả hai cùng bật cười theo. Dù em lấm lem bùn đất,
tôi vẫn nhận ra một đôi mắt to tròn ánh lên vẻ cương nghị, một cặp môi mỏng, mềm
mại, khi cười lấp lánh hàm răng trắng đều tăm tấp. Đôi quai bòng kéo căng hai
vai áo em khiến tôi còn nhận ra cả những giọt mồ hôi lấm tấm tụ nơi hõm cổ hồng
hồng. Không nói lời xin lỗi, cũng không nói câu cám ơn, tôi buột miệng nói ra một
câu có lẽ là vô duyên nhất đời:
-Đồng chí ơi, xin hỏi thăm, chiến trường trong ấy có
ác liệt không ?
Em ngước nhìn tôi vẫn với đôi mắt ấy, miệng tủm tỉm.
Vài giây trôi đi, vẻ mặt em đột nhiên trở nên thoáng buồn:
-Biết nói với anh thế nào đây?...Nếu bây giờ anh bảo
em trở vào cùng anh, em đi tức thì à!
Lẽ ra lúc đó tôi sẽ đưa em trở lên đỉnh dốc, cũng có
thể tôi theo em về tận trạm giao liên sáng ấy tôi vừa rời đi, ăn với em một bữa cơm trưa, rửa mặt
cùng em chung một dòng suối…Làm hết từng ấy công việc, tôi sẽ cuốn nước “ mã hồi”
về trạm sau vẫn còn sớm chán. Vì thuở ấy tôi mang sức vóc của một chàng trai tuổi
20. Nhưng tôi vẫn đứng như trời trồng, lòng dạ lâng lâng, bồng bềnh một cảm
giác rất lạ, chưa xảy đến bao giờ, mắt níu bóng dáng em đang nhỏ dần, nhỏ dần
sau màn mưa phía lưng chừng dốc…
Từ sau tháng 4/1975 đến nay tôi đã đi khắp dải đất
miền Trung, đã qua nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Không thổ lộ với ai, tôi
vẫn âm thầm, nhẫn nại đi tìm ánh mắt, nụ cười ấy…
Tôi không bao giờ tìm ra em nữa và chợt hiểu rằng nụ
cười ấy, ánh mắt ấy đã vĩnh viễn thuộc về Trường Sơn một thuở.