Rất TRẦN VÀNG SAO
Nhà thơ Ngô Minh ở Huế, người bạn vong niên thân thiết với Trần Vàng Sao từng nghe ông kể về nguồn cơn dẫn đến bút danh ấn tượng này. Đó...
http://www.lethieunhon.vn/2018/05/rat-tran-vang-sao.html
Nhà thơ Ngô Minh ở Huế, người bạn vong niên thân thiết
với Trần Vàng Sao từng nghe ông kể về nguồn cơn dẫn đến bút danh ấn tượng này.
Đó là cuối năm 1967, “Bài thơ của một người yêu nước mình” được Nguyễn Đính viết
một mạch trên chiến khu Thừa Thiên khi ông đang bị ốm nằm tại bệnh xá. Bài thơ
ngay sau đó được đưa vào tập văn thơ “Nổi lửa” in ronéo hàng ngàn bản chuyển xuống
nội thành tuyên truyền cho chiến dịch Mậu Thân. Lúc đầu bài thơ ký tên Trần
Sao, nhưng ngay trước khi đưa đi in được tác giả đổi lại thành Trần Vàng Sao, bởi
theo lời Trần Vàng Sao: “cái tên ấy cũng khí khái, hợp tạng mình nên mình vẫn
giữ đến bây giờ”. Từng nghe kể rằng năm 1976, khi đưa bài thơ này vào tập thơ “Huế
từ ấy”, nhạc sĩ Trần Hoàn, khi đó là Trưởng ty Thông tin Bình Trị Thiên đã đề
nghị tác giả thay bằng tên thật Nguyễn Đính, nhưng Trần Vàng Sao kiên quyết
không nhượng bộ.
RẤT TRẦN VÀNG SAO
TRẦN TUẤN
Nhà thơ Trần Vàng Sao vừa ra đi tại quê nhà Vỹ Dạ
(Huế) ở tuổi 78, sau một cuộc đời kỳ lạ để lại nhiều nỗi xa xót, tiếc thương.
Trần Vàng Sao là một trong những nhà thơ yêu nước chân chính và quả cảm nhất mà
tôi được biết.
Tháng 12/1967, trên chiến khu Thừa Thiên – Huế, nhà
thơ Nguyễn Đính viết “Bài thơ của một người yêu nước mình” ký tên Trần
Vàng Sao. Một trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20. Lúc đó
ông mới 26 tuổi.
“Buổi sáng tôi mặc áo đi giày/ ra đứng ngoài đường/
Gió thổi những bông nứa trắng bên sông/ Mùi tóc khô còn thơm lúa mùa qua/ Bầy
chim sẻ đậu trước sân nhà/ Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé/ Tôi yêu đất nước
này như thế”. Cứ thế, “điệp khúc tôi yêu đất nước này” dài ra mãi. Những câu
thơ mang chất trường ca bồi hồi xúc động từ đáy tâm can của một chàng
trai trẻ sống yêu thương, đầy trách nhiệm, luôn da diết với cội nguồn. Với mẹ
già, em thơ, với căn nhà, chái bếp... Với nỗi khát khao hai chữ Hòa Bình…
“Tôi yêu đất nước này cay đắng/ Những năm dài thắp
đuốc đi đêm”. “Tôi yêu đất nước này áo rách/ Căn nhà dột phên không ngăn nổi
gió/Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở/ Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài/ Thắp đèn
đêm ngồi đợi mặt trời mai”. “Tôi yêu đất nước này lầm than/ Mẹ đốt củi trên rừng
cha làm cá ngoài biển/ Ăn rau rìu rau éo rau trai/ Đất nước này còn chua xót/
Nên trông ngày thống nhất/ Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam/ Cho
bên này không gọi bên kia là người miền Bắc/ Lòng vui hôm nay không thấy chật”.
Nhà thơ Ngô Minh ở Huế, người bạn vong niên thân thiết
với Trần Vàng Sao từng nghe ông kể về nguồn cơn dẫn đến bút danh ấn tượng này.
Đó là cuối năm 1967, “Bài thơ của một người yêu nước mình” được Nguyễn Đính viết
một mạch trên chiến khu Thừa Thiên khi ông đang bị ốm nằm tại bệnh xá. Bài thơ
ngay sau đó được đưa vào tập văn thơ “Nổi lửa” in ronéo hàng ngàn bản chuyển xuống
nội thành tuyên truyền cho chiến dịch Mậu Thân. Lúc đầu bài thơ ký tên Trần
Sao, nhưng ngay trước khi đưa đi in được tác giả đổi lại thành Trần Vàng Sao, bởi
theo lời Trần Vàng Sao: “cái tên ấy cũng khí khái, hợp tạng mình nên mình vẫn
giữ đến bây giờ”.
Từng nghe kể rằng năm 1976, khi đưa bài thơ này vào
tập thơ “Huế từ ấy”, nhạc sĩ Trần Hoàn, khi đó là Trưởng ty Thông tin Bình Trị
Thiên đã đề nghị tác giả thay bằng tên thật Nguyễn Đính, nhưng Trần Vàng Sao
kiên quyết không nhượng bộ.
Khí chất “Vàng Sao” đã trở thành cốt cách và máu thịt
của người thơ ấy. Trong suốt cuộc đời yêu nước và sáng tạo đầy bi kịch của ông.
Năm 1969, Trần Vàng Sao được đưa ra Bắc chữa bệnh. Thế rồi không hiểu sao những
trang nhật ký và thơ riêng tư của ông bị “lọt ra ngoài”. Để rồi suốt nhiều năm
trời sau đó ông bị tổ chức kiểm điểm nặng nề. Nặng nề không kém gì trường hợp Hữu
Loan, Trần Dần, Lê Đạt… Tất cả mọi cặp mắt đều nhìn ông như một “kẻ phản động”.
Năm 1975, Trần Vàng Sao về lại quê nhà Vỹ Dạ (Huế),
làm ở ngành văn hóa. Và công việc sau cùng của ông là chân “liên lạc” cho
ủy ban xã Hương Lưu (phường Vỹ Dạ bây giờ), tức là ai cũng có thể sai vặt đưa
thư từ, công văn đi quanh xã. Vợ chồng ông và hai đứa con nhỏ sống “những ngày
hết gạo hết tiền hết củi/ muối sống không còn một hột”…
Những năm giữa thập niên 80 của thế kỷ trước khi tôi
khoác áo sinh viên ở Huế, cho đến sau này, tôi thi thoảng được gặp nhà thơ Trần
Vàng Sao. Ông ở Vỹ Dạ, căn nhà cũ kỹ tường vôi tróc lở, cùng sách vở, tranh vẽ
ngổn ngang. Khi đó vợ chồng ông đã xin nghỉ việc nhà nước về nhà được 5,6 năm rồi.
Vợ là y sĩ, về chạy chợ. Còn ông mới tuổi ngoài bốn mươi, giúp mẹ già bán gánh cháo
mưu sinh. Người mẹ góa chồng từ rất sớm nhưng ở vậy nuôi con suốt bao nhiêu năm
trời. Đó cũng là thời điểm Trần Vàng Sao viết “Người đàn ông bốn ba tuổi
nói về mình”. Bài thơ gây chấn động xứ Huế những năm tháng ấy. Ở Huế lúc bấy giờ,
tôi cảm nhận rất rõ những dư chấn, qua những cuộc hội thảo, những bài
báo, lời phát biểu “đánh” bài thơ này cùng tác giả của nó.
Nhưng Trần Vàng Sao vẫn an nhiên trong đời sống đói
khổ của mình. Vẫn viết. Những lần tiếp xúc với ông, tôi thấy khá lạ. Đó là
ngoài đời ông có vẻ không “gân guốc” như Hữu Loan, Nguyên Hồng, Trần Dần…, dẫu
cuộc đời họ đặc biệt giống nhau bởi sự trầm luân của ngòi bút. Thậm chí nhiều
khi tôi chứng kiến một Trần Vàng Sao rụt rè sợ những ai nói “lời to tiếng lớn”,
như con chim sợ cành cong. Nhưng trong thơ, có lẽ rất hiếm nhà thơ nào dữ dội,
thẳng băng, không chút e ngại như ông. Với một giọng thơ pha trộn biết bao cung
bậc cảm xúc. Hào hoa, hào sảng, minh triết, nhưng cũng rát bỏng, nhức nhối
tâm can… Trên hết là lòng yêu nước, thương người đến không khoan nhượng.
Như trong “Gọi tìm xác đồng đội” (NXB Hội Nhà văn và
Công ty Văn hóa Phương Nam xuất bản năm 2012, cũng là tập thơ duy nhất được in
của ông). Những câu thơ đau đáu: “Ngày mai có hòa bình/ tôi nói với anh em bè bạn/
có anh em như có tôi hôm nay/ ngày mai có hòa bình/ thôi em đừng ngơ ngác/ hai
cánh tay tôi bơ vơ suốt đời tôi rồi/ tả tơi và đau lắm em ơi/ ngày mai có hòa
bình/ có thấy nhớ nhau mà về không”
Tôi chợt hiểu Trần Vàng Sao suốt đời chỉ vẽ Bồ Đề Đạt
Ma. Với nét vẽ độc dị không ai so được. Trong bài thơ viết tặng ông từ nhiều
năm trước, tôi đã gọi ông là “Vỹ Dạ Đạt Ma”.
“Vỹ Dạ Đạt Ma/ câu thơ ngồi lặng/ cau hoá bồ đề/ kìa
kìa cỏ trắng/ khâu vào thịt da”.
Vĩnh biệt ông, một người yêu nước mình theo cách rất
“Vàng Sao”!
Nguồn: Tiền Phong