Cuốn
sách “Ở R – Chuyện kể sau 50 năm” là di cảo của nhà văn Lê Văn Thảo
(1939-2016). Ông viết xong tháng 4-2015, nhưng cuộc vật lộn và thúc thủ trước
căn bệnh hiểm nghèo đã khiến ông không thể nhìn thấy đứa con tinh thần này đến
tay bạn đọc. “Ở R – Chuyện kể sau 50 năm” vừa được trao giải B Sách hay – Giải
thưởng sách quốc gia, thì gia đình cố nhà văn Lê Văn Thảo tổ chức ra mắt tại
Thành phố Hồ Chí Minh! “Ở R – Chuyện kể sau 50” có dáng dấp của tự truyện. Mạch
cảm hứng của “Ở R – Chuyện kể sau 50 năm” tiếp nối tác phẩm “Những năm tháng nhọc
nhằn” mà nhà văn Lê Văn Thảo đã in năm 2012. Nếu “Những năm tháng nhọc nhằn” kể
lại sự ngột ngạt của thanh niên đô thị Sài Gòn đầu thập niên 1960, thì “Ở R –
Chuyện kể sau 50 năm” là hành trình giã biệt phố xá vào chiến khu từ năm 1962.
LÊ
VĂN THẢO KỂ CHUYỆN VĂN NGHỆ Ở RỪNG
LÊ THIẾU NHƠN
R là tên gọi tắt của Căn cứ Trung ương Cục miền Nam,
đóng ở phía Bắc tỉnh Tây Ninh giáp biên giới Campuchia. Đến R, Lê Văn Thảo
không chỉ ngỡ ngàng trước những địa danh mới như Tà Xia, Lò Gò hoặc xa Mát mà
còn được rèn luyện và trưởng thành ở chiến khu Tân Biên: “Chúng tôi có bảy anh
em, một thời sống nheo nhóc trong Đồng Tháp Mười. Năm 1954, ba tôi đi tập kết,
má tôi một mình nuôi bầy con, chúng tôi sống dưới cả mức nghèo khổ. Ở trường,
tôi say mê môn toán, một bài toán không giải được tôi ngủ không yên, giải xong
một bài tôi cảm thấy khoái hoạt, sướng lâng lâng, như cầu thủ bóng đá sút thủng
gôn, vận động viên nhảy vượt xà. Tôi đã miệt mài trong học tập, giờ đây tôi
cũng miệt mài trong lao động chân tay. Tôi có sức khỏe, biết tính toán, chỉ mấy
năm tôi đã thông thạo mọi công việc trong rừng, làm bất cứ việc gì, đốn cây,
đào hầm, đào giếng, cắt cỏ tranh, hái lá trung quân, tát suối bắt cá…”.
Bây giờ, những cánh rừng Tân Biên không còn nhiều và
những trảng cỏ mà nhà văn Lê Văn Thảo từng đi qua cũng không còn nhiều. Nếu chứng
nhân như ông không viết lại, thì thật khó hình dung, nơi mà những trang trại
cao su nối nhau dưới cái nắng miền Đông chói chang hôm nay, đã từng có một thời
rực rỡ đáng nhớ: “Nhiều người tưởng cuộc sống chúng tôi ở trong rừng là tạm bợ,
sẽ ngạc nhiên một lần dạo qua các khu căn cứ của chúng tôi. Xu hướng con người
cũng như mội sinh vật luôn muốn tô điểm chỗ ở của mình, trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Không chỉ hội trường, nhà bếp công cộng, từng nhà riêng cũng đươc chăm
chút trang hoàng. Trước bàn viết của Thủy Thủ có những dây leo bò quanh những
chấn song. Nhà của vợ chồng Lê Giang – Lư Nhất Vũ đầy những giò phong lan. Nguyễn
Chí Hiếu là họa sĩ nhiều năm học ở Liên Xô ngành tranh trí thiết kế, “chơi” một
căn nhà theo kiểu ibba của Nga với những súc gỗ cây dầu lông da rạn nứt tuyệt đẹp
chất thành vách nhà, khiến người các cơ quan lân cận tổ chức thành đoàn đi tham
quan. Tôi thuộc hạng bét trong việc trang trí nhà ở, cũng biết dành lại những bụi
cây đẹp trong lúc dọn sân nhà để làm cây cảnh”. Không chỉ vậy, ngay ở chiến khu
cũng mở trại sáng tác khá xôm tụ: “Trại ở một cụm rừng gần Xóm Giữa, tên gọi là
Lãng Bạc, một cái tên thơ mộng rất hợp với văn chương… Đó là trại sáng tác đông
người và dài ngày nhất, tập trung nhiều người viết văn ở đồng bằng Nam bộ, miền
Đông và cả khu 6. Anh Phan Minh Đạo ở tận miền Trung cũng về dự. Sài Gòn ra có
các anh Trang Thế Hy, Phan Lạc Tuyên. Phụ trách trại là nhà văn Nguyễn Văn Bổng…
Chúng tôi có những buổi sinh hoạt thú vị, đọc những tác phẩm kinh điển trong
các tuyển tập, các tác phẩm anh em trong trại, cùng nhau bình giảng, chủ yếu
tìm ra cái hay cái giỏi của những người viết đi trước”.
Nhà văn Lê Văn Thảo không kể lại chuyện ở R bằng
thái độ của một người quan sát và một người dự phần, mà ông trải ra trang viết
những bộc bạch riêng tư: “Hồi học trung học ở Long Xuyên, rồi lên đại học ở Sài
Gòn, tôi vẫn miệt mài viết văn. Tôi đọc nhiều, thấy người ta viết tôi cũng viết.
Không hẳn tôi muốn nổi tiếng, chỉ muốn được đắm mình vào cuộc sống của tưởng tượng,
cuộc sống thứ hai tôi có được khi đọc sách. Nhưng không có truyện nào thành
công, không báo nào đăng truyện của tôi. Tôi chỉ viết những điều tưởng tượng, cảm
xúc vay mượn, không có cuộc sống thật, cảm xúc thật. Tôi không có điều kiện học
tập, không được định hướng, không có môi trường bạn bè. Viết văn cũng là một
nghề, nhưng tôi không có nền tảng cơ bản. Nhưng tôi không thất vọng. Tôi vẫn viết,
ước muốn của tôi chỉ là được viết. Tôi thiếu vốn sống, thiếu ngôn từ, điều đó
sau này tôi mới biết. Vào chiến khu sống chan hòa với mọi người, có ngày tôi đi
bộ năm mươi cây số từ tỉnh này qua tỉnh khác, bao nhiêu điều tai nghe mắt thấy.
Chỉ trong mấy năm, tôi thấy mình khác hẳn, tuy đã rời nhà trường, rời sách vở,
bài giảng nhưng sự hiểu biết vẫn không ngừng được thu nhận, hiểu biết đời sống,
hiểu biết con người, mối quan hệ bạn bè, đồng đội ngày càng được thắt chặt.
Nhưng tôi là “người chậm”, phải hơn nửa đời người, tôi mới có thể thấy tự tin
hơn, có thể viết ra cái của mình”. Một nhà văn có thành tựu, đã được trao Giải
thưởng Hồ Chí Minh như Lê Văn Thảo mà vẫn chân thành nhắc lại những non yếu xa
xưa của mình, thì cũng thật đáng nể. Thậm chí Lê Văn Thảo thú nhận thất bại khi
tham gia viết về những gương mặt được tuyên dương Anh hùng vào năm 1967: “Truyện
tôi viết về Đoàn Hoàng Minh hoàn toàn không thành công. Tôi chưa có kinh nghiệm
văn chương, tôi cũng không quen viết truyện anh hùng, những người nổi tiếng,
theo đơn đặt hàng. Tôi viết truyện ngắn, bút ký cũng dựa vào chuyện thật, nhưng
tự do tôi chọn. Chuyện anh hùng gây cho tôi áp lực. Tôi có thiên hướng viết về
con người bình thường”.
Là một nhà văn, nên hồi ức của Lê Văn Thảo trong “Ở
R- Chuyện kể sau 50 năm” đậm nét nhất ở những trang viết về văn nghệ sĩ. Lê Văn
Thảo phác hoạ nghệ sĩ Thanh Nha giỏi chơi đờn kìm, nhà văn Lý Văn Sâm có biệt
tài viết ca cổ, còn Lê Anh Xuân có khả năng kể chuyện cuốn hút: “Cơ quan Hội
Văn nghệ, tức Tiểu ban Văn nghệ, gồm tổ sáng tác phần đông lớn tuổi, và tổ
thanh niên lao độngLê Anh Xuân còn trẻ tuổi nhưng đã là một nhà thơ có tiếng,
được xếp vào cán bộ sáng tác. Tôi tuy làm việc ở văn phòng, nhưng chỉ là văn
thư, đánh máy nên sinh hoạt ở tổ lao động. Tổ thanh niên lao động chúng tôi có
giờ sinh hoạt buổi tối ở nhà bếp, đọc tin tức, nghe kể chuyện, hát hò văn nghệ.
Phần đông thanh niên người nông thôn, chỉ có ở làng rồi lên rừng, háo hức muốn
biết chuyện đây đó, cảnh lạ vật lạ. Lê Anh Xuân thường sinh hoạt với chúng tôi,
kể chuyện miền Bắc, chuyện Trường Sơn. Một hôm anh kể về một loài cá sống trên
cây. Ở rừng có nhiều cây cổ thụ có ổ rồng ( một loài dương xỉ) mọc bám vào thân
cây, bẹ lá làm thành một bọng nước, thường có các sinh vật nhỏ sống trong đó,
nòng nọc, các loài ếch nhái, hoặc các phiêu sinh vật bay trôi nổi trong không khí,
gặp nước là sống lại. Nhưng Lê Anh Xuân không biết nghe ai kể, hoặc với tâm hồn
bay bổng, nói có cá sống trong đó. Và rồi anh hư cấu them, con cá ăn hết thức
ăn trong ổ rồng này rồi bay sang ổ rồng khác tìm thức ăn, đêm nằm trên võng
nhìn lên thấy từng đàn cá bay… Đám thanh niên trố mắt nghe, kêu lên: Lạ quá!
Hay quá! Tôi biết chuyện khó tin, nhưng phải công nhận hình tượng từng đàn cá
bay bay của anh thật đẹp!”. Không những vậy, qua di cảo Lê Văn Thảo, công chúng
được minh định thêm vài hoài nghi khác đã từng mờ tỏ trong lớp bụi thời gian,
ví dụ về tác giả ca từ của bài hát “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” lừng lẫy: “Năm
1966, anh Xuân Hồng sang cơ quan chúng tôi chơi ít tháng trước khi lên đường ra
Bắc. Một hôm anh đến chỗ tôi và Lê Anh Xuân chơi. Biết tôi đang biên tập Tạp
chí Văn Nghệ Giải Phóng, anh hỏi tôi có thấy bài thơ nào hay đưa anh phổ nhạc.
Tôi nói may quá, tôi vừa nhận được bài thơ ở Tây Nguyên, rõ là của một chiến
sĩ, viết trên tờ giấy học trò, chữ xiêu vẹo lem luốc, tên bài thơ là “Sóc Bom
Bo”, lời lẽ rất thật thà chất phác. Tôi đưa anh bài thơ. Mấy năm sau bài hát được
phát, rất nổi tiếng, tôi chỉ biết vậy thôi, đâu còn nhớ tác giả là ai. Mãi về
sau này một nhạc sĩ nói với tôi có nghe nói bài hát phổ từ một bài thơ, nhưng
không biết tên tác giả. Tôi nói đúng như vậy, và ngoài anh Xuân Hồng, người thứ
hai biết điều đó là tôi. Tôi nói ra không phải về vấn đề bản quyền, anh Xuân Hồng
chắc cũng đã quên mất, tôi cũng không để ý, ở trong rừng có in ấn gì đâu. Điều
tôi muốn nói là anh chiến sĩ chắc đã chết, nếu không anh đã tìm đến Hội Nhạc
sĩ. Và điều đó cũng thật đẹp, anh đã không còn nữa, nhưng lời thơ của anh được
mọi người hát mãi”.
Tham gia cả hai đợt của cuộc nổi dậy và tấn công Mậu
Thân 1968, nhà văn Lê Văn Thảo khẳng định hai điều trong cuốn “Ở R- Chuyện kể
sau 50 năm”. Thứ nhất, “không nói đến đóng góp của người dân là một thiếu sót lớn”.
Thứ hai, “tôi gọi đó là trận đánh hào hùng và bi thảm, tôi không ngại nói từ thứ
hai đó. Có quá nhiều mất mát, không nói đến điều đó là xúc phạm người hy sinh”.
Và hình ảnh người dân ven đô trong cuộc nổi dậy và tấn công Mậu Thân 1968 còn đọng
lại trong ký ứ nhà văn Lê Văn Thảo là một sự gần gũi ân tình: “Nhà văn Nguyễn
Văn Bổng đang hoạt động ở Sài Gòn cũng thỉnh thoảng ra gặp chúng tôi. Ông vốn đẹp
người, lớn tuổi nhưng trông rất trẻ, hoạt động “hợp pháp” nên diện như công tử
Sài Gòn. Ông quan hệ rộng, đi tới đâu làm quen tới đó, chỉ mấy ngày trong xóm
ông quen hết các nhà xung quanh. Chúng tôi ở nhà một “bà má chiến sĩ”, chúng
tôi cũng gọi luôn “má” như thế. Một đêm nằm lắc võng, ông Bổng hỏi tuổi bà má.
Bà đáp. Ông nói: Vậy là má cùng tuổi với con!”./.