Tâm sự của nhà văn Dạ Ngân khi làm tuyển tập “Người
không đi cùng chuyến tàu” cho người chồng quá cố Nguyễn Quang Thân: “Ở tuyển tập
này, tôi chọn ba truyện của thời kỳ “hiện thực xã hội chủ nghĩa là thống soái”
để bạn đọc và bạn viết yêu mến Nguyễn Quang Thân nhận diện một giai đoạn cần phải
“ngoan vừa phải” nếu không muốn đi tù như Bùi Ngọc Tấn! Nhưng, Những chùm
cúc biển, anh viết tháng 10/1960 năm anh 25 tuổi rất gợi, không khác gì văn anh
sau này khi đã bốn mươi hay năm mươi tuổi, tài và tình. Với Tái sinh viết
ba năm sau đó, tác giả chưa đầy 30 tuổi mà đã từng trải, gân guốc và, với En-xi viết
năm 1975 thì khác nhiều. Gần 20 năm cầm bút, lồng lộn trong xã hội “tất cả cho
chiến tranh và chiến thắng” và 15 năm đời sống riêng tư trúc trắc, vì vậy mà
tâm trạng tác giả rười rượi, ngập ngừng, quay quắt”.
NGUYỄN QUANG THÂN TRƯỚC VÀ SAU “NGƯỜI KHÔNG ĐI CÙNG
CHUYẾN TÀU”
DẠ NGÂN
Trại sáng tác Vũng Tàu 1982 dường như lại nhấp nhánh
thêm lên khi thời gian thành xa cũ. Không chỉ vì lần đầu sau 1975, Hội Nhà văn
Việt Nam có ý tưởng mời một số nhà văn ba miền Bắc Trung Nam ngồi viết bên
nhau. Không chỉ vì Trại trưởng là nhà văn Nguyên Ngọc nổi tiếng với những cú
lên bờ xuống ruộng (nay chừng như đang nổi tiếng hơn). Không chỉ vì ở đó có
chuyện “Khóc Nguyên Hồng” làm thành một dàn đồng ca “nổi loạn, đốt đền…” Và,
không chỉ vì chuyện yêu đương đàn ông đàn bà văn giới khá là phổ biến bỗng có một
đôi đi suốt với nhau đến hết “đường thơm”…
Trại ấy nhóm Sài Gòn có Nhật Tuấn, Đào Hiếu, Nguyễn
Nhật Ánh, Lý Lan, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lưu Ngũ. Từ miền Trung có
Chính Tâm, Nguyễn Quang Hà, Trần Thùy Mai. Miền Tây Nam bộ có Chu Hồng Hải,
Đinh Thị Thu Vân, Trà Giang, Nguyên Tùng, Dạ Ngân. Miền Bắc có Hoàng Minh Tường,
Lê Xuân Giang và, Trại đã bắt đầu nửa tháng rồi, đáng lý có Nguyễn Quang Thân
cùng Chu Văn Mười của Hải Phòng mà chưa thấy đâu. “Cai trại” thì Nguyên Ngọc ăn
nói đứng ngồi gì cũng ra cung cách thủ lĩnh, Nguyễn Thành Long bảng
lảng Lặng lẽ Sa Pa, Huy Phương nhòn nhọn như tiểu thuyết Xi măng của
ông còn Nguyễn Xuân Sanh, ôi chao, nhẹ bẫng “đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”.
Cuối cùng, Nguyễn Quang Thân cũng nhập Trại theo kiểu
của anh: đi tàu thủy Hải Phòng – Bến Bạch Đằng, tạt qua Thanh Đa thăm em gái,
khi ngồi xe đò Sài Gòn – Vũng Tàu mua 1 tờ vé số (lần đầu mua vé số) và trúng
giải khuyến khích! Anh oang oang rằng anh linh cảm ở Trại viết này anh sẽ gặp
may, dù chỉ khuyến khích thôi nhưng vẫn cứ là may, tin đi! Lơ đễnh bởi gã muối
tiêu xương xóc vạm vỡ bê chiếc máy chữ cũ mèm đi từ trên gác nhà ăn xuống, tôi
nghĩ đó là Chu Văn Mười, cái bút danh ấy hợp với vẻ già già của anh ta. Sau này
anh mô tả khoảnh khắc “tiếng sét” với tôi rằng: “Một phụ nữ trẻ, mi-nhon, buồn
buồn, mái tóc tém rất hay đang đứng chia cơm cho các bàn giúp cô cấp dưỡng của
Trại, chao, người này làm vợ thì chắc là rất tuyệt!”. Lê Xuân Giang khi ấy đang
nổi tiếng với bản dịch tiểu thuyết Hai mươi giờ (Hungari) lăng
xăng giới thiệu các trại viên với nhau. Anh dừng lại với Nguyễn Quang Thân:
“Đây, người không đi cùng chuyến tàu, khinh tàu hỏa mà vẫn cứ phải lụy tàu thủy
nên đến muộn”. Tôi chưa hề biết một nhà văn có tên là Nguyễn Quang Thân và cái
truyện ngắn đình đám kia. Nguyễn Quang Thân tiến đến bảo cũng chưa hề đọc gì của
Dạ Ngân nhưng có đọc khảo cứu của Sơn Nam và “Cô em đây đúng văn minh miệt vườn
thứ thiệt chưa?” Rất nhiều tràng cười khích bác cổ vũ chòng ghẹo. Tôi chòng
chành cảnh cáo: “Gái miền Nam dễ thương nhưng thương không dễ, nha!”
Chuyện một con công ra sức xòe đuôi dựng cánh sẽ kể
vào một dịp khác, dịp vui. Nhìn Nguyễn Quang Thân áo sờn quần rách gối thảm hại
quá so với mấy nhà văn Sài Gòn, tôi lại chú ý anh theo hướng đó. Vì sao và vì
sao, với tôi Hà Nội khi ấy vẫn âm vang “Miền Bắc thiên đường của các con tôi”
kia mà? Anh trẻ trung hơn tuổi bốn mươi bảy và sự hiếu động thì khỏi nói, anh rủ
“cô em miệt vườn” đi tắm biển, đi leo núi, đi chùa, đi la cà hủ tiếu ngoài chợ,
đi xem anh và Chu Văn Mười nhấm lạc rang với bia hơi và xem anh trêu ghẹo đám nữ
miền Tây hiền lành, nhẹ dạ (từ của anh). Bởi khi anh buông một câu ngổ ngược kiểu
nhân vật trong Người không đi cùng chuyến tàu là Đinh Thị Thu Vân hoặc
Trà Giang la lên “Tụi em đang nhen nhóm niềm tin mà anh cứ hắt nước vô!”. Anh
cười hết cỡ: “Các em ơi, niềm tin của các anh đùng đùng như củi mà còn tắt ngóm
huống chi các em mới bắt đầu nhen nhóm bằng những que diêm!”
Gần hai tháng, tôi trở về Cần Thơ với cái án tình
trong lương tâm và thêm vết đen “ngoại tình chuyên nghiệp” trong lai lịch. Xộc
vô thư viện ngay, tôi có một danh sách những tác giả Nobel từng khu vực mà anh
Thân liệt kê cho. Những cuốn được phía Việt Nam Cộng Hòa dịch nữa, “em thử tìm ở
các tủ sách những gia đình quen biết xem sao”. Nhưng tôi phải đọc Nguyễn Quang
Thân trước đã. Anh không mang bên mình Người không đi cùng chuyến tàu, tờ
Văn Nghệ in nó cũng không tìm thấy nữa và, kể lại một truyện ngắn thật khó và
“vô duyên” (từ của anh). Vậy mà cách anh ưu tư, khóe miệng đượm buồn, mái tóc
phong sương… thật “tâm trạng”, sâu sắc và… đáng tin chứ không như khi bông
phèng giữa chốn đông người.
Thư viện Cần Thơ chỉ có duy nhất cuốn Những người
chinh phục của Nguyễn Quang Thân in năm 1977. Tôi mượn về nhà và kín đáo
giữ riệt nó. Anh xuất hiện trên văn đàn năm 22 tuổi, ngay truyện đầu tay đã được
giải thưởng báo Thống Nhất. Hai mươi lăm năm ngược từ Trại Vũng Tàu về trước,
Nguyễn Quang Thân đã có 3 tập truyện và 1 tiểu thuyết (Lựa chọn in 1978),
nhưng sao không tiếng vang gì mấy? Tôi băn khoăn và 8 truyện trong Những
người chinh phục thì thầm với tôi, rằng “phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa” là cái trần mà không mấy nhà văn miền Bắc nhoi lên được. Vả lại, năm
1965 khi đang công tác ở Ty Thủy lợi Hải Phòng, anh phải viết khiếu nại gửi Bộ
trưởng Bộ Thủy lợi (hiện nay tôi còn giữ 4 trang giấy pơ-luya đánh máy bản khiếu
nại ấy). Vì lý do gì? Vì nhà văn trẻ trong thời gian học trung cấp thủy lợi đã
có những phát ngôn “lệch lạc” về Cải cách ruộng đất, về Tự do dân chủ, về Nhân
văn giai phẩm… và từng bị cảnh cáo trước toàn trường! Một “vết đen” trong cái
guồng xã hội chủ nghĩa mà người ấy vẫn phải viết để sinh tồn, nuôi vợ nuôi con
và… nuôi hy vọng cái lồng rồi sẽ được nới ra, thôi thì cá mè một lứa cả.
Chiến tranh kết thúc, òa vỡ, khai phóng, âm thầm
chín muồi, nung nấu. Nhưng bài học tù tội của bạn anh – Bùi Ngọc Tấn – sờ sờ ra
đó. Châu Diên, Dương Tường, Nguyên Bình, cùng Bùi Ngọc Tấn và anh, kẻ bắn lên
Hà Nội, người trụ lại đất Cảng, tụ tập cười khóc đắng cay với sống và viết
“không như trước nữa”.
Ở tuyển tập này, tôi chọn ba truyện của thời kỳ “hiện thực xã hội chủ nghĩa là
thống soái” để bạn đọc và bạn viết yêu mến Nguyễn Quang Thân nhận diện một giai
đoạn cần phải “ngoan vừa phải” nếu không muốn đi tù như Bùi Ngọc Tấn!
Nhưng, Những chùm cúc biển, anh viết tháng 10/1960 năm anh 25 tuổi rất gợi,
không khác gì văn anh sau này khi đã bốn mươi hay năm mươi tuổi, tài và tình. Với Tái
sinh viết ba năm sau đó, tác giả chưa đầy 30 tuổi mà đã từng trải, gân guốc
và, với En-xi viết năm 1975 thì khác nhiều. Gần 20 năm cầm bút, lồng
lộn trong xã hội “tất cả cho chiến tranh và chiến thắng” và 15 năm đời sống
riêng tư trúc trắc, vì vậy mà tâm trạng tác giả rười rượi, ngập ngừng, quay quắt.
Bối cảnh xã hội miền Bắc sau năm 1975 lung lay
nghiêm trọng có tên là hậu chiến và hậu hợp tác hóa toàn diện nhưng vẫn được giới
lãnh đạo lên dây cót bằng thói kiêu ngạo cố hữu, bỗng sụp đổ thêm trong những
người “hoài nghi là thuộc tính của giới trí thức” (cụm từ ưa thích của Nguyễn
Quang Thân) khi cuộc chiến ở hai đầu đất nước nổ ra. Lại chiến tranh ư, đó là
những tiếng thét phẫn uất từ những cái miệng “bị khớp như người ta khớp mõm
chó”. Người không đi cùng chuyến tàu bật ra như chiếc lò xo bị nén.
Có thể hình dung, tháng 12 năm 1979 ấy, giữa mùa đông đói rét, nhà văn gõ vào
máy chữ những dòng nổi đóa, mê mải, sắc nhọn, mãnh liệt. “Tôi phản đối những
người lái tàu hôm nay!”. Chấn động! Đến tai người quyền lực ngang ngửa khi ấy,
phải một cú điện thoại của giới chóp bu Hà Nội cho lãnh đạo thành phố Hải Phòng
thì nhà văn mới được giải thoát khỏi những lời đe dọa treo bút. Hơn hai năm
dài, 1980 và 1981, nhà văn đứng yên, cho đến khi được đi miền Nam lần đầu, Vũng
Tàu tháng 4/1982.
Nguyễn Quang Thân cả quyết: phải có những cú bươu đầu
sứt trán thì cái trần đối với nhà văn mới được nới lên. Chính nhà văn phải bật
lên, không ai giúp được. Và độc giả dần cũng đã khác theo. Cái trần ở đây là sự
tự kiểm duyệt của các tòa báo và các nhà xuất bản để tác phẩm được in ra, cùng
thói quen ngầm thỏa hiệp của chính người viết. Nguyễn Quang Thân không hào hứng,
đúng ra là không chấp nhận hoàn cảnh viết để ngâm trong hộc bàn chờ thời. Anh sống
cho từng ngày sống của một con người và một nhà văn, anh bảo, trong đường hầm
thì mình vẫn cứ phải cục cựa, phải nống, phải làm cho cái hầm ấy rộng ra và đi
về phía ánh sáng. Nhưng sau đe và búa bởi Người không đi cùng chuyến tàu là
một cái án tình ở Vũng Tàu, lại bị dọa kỷ luật, dòng tộc đe dè, con cái còn
chưa trưởng thành xong… Anh ngưng viết cho người lớn và tìm vui với đối tượng
không cần chính trị, không sợ bắt bẻ đe nẹt. Chú bé có tài mở khóa viết
trong cả năm 1983 và anh đã tìm thấy thanh sạch, trong veo, cân bằng. Mấy năm
sau (1987) một va chạm riêng tư đau đớn đã khiến anh viết một lèo truyện Người
làm ra động đất như thể truyện vừa. Anh bảo anh đã tìm lại được nỗi đau nội
thương để trở lại với truyện ngắn.
Từ năm 1984 anh tìm thấy một chỗ ở cho tự do thân thể
và thời gian: cơ quan Hội Văn Nghệ Hải Phòng. Gạo lứt, giường đơn, yoga, bơi biển,
học tiếng Anh và trở lại với những trang thơ tiếng Nga của Akhmatova mà anh mê
say từ trước. Anh đọc nhiều, đi Nam mỗi năm ít nhất một lần, mày mò dịch thơ,
làm thơ và viết liền hai tiểu thuyết, Một thời hoa mẫu đơn (
1987) Ngoài khơi miền đất hứa(1989). Để chuẩn bị cho cuộc sống mới ở Hà Nội,
anh dành những khoản nhuận bút ấy mua nửa căn hộ ở Kim Giang. Bắt đầu “cày” (từ
của anh), viết truyện, viết báo để Dạ Ngân sẽ ra học Viết Văn Nguyễn Du (đi bằng
kế hoạch ấy thì tỉnh mới đồng ý). Những truyện ngắn tung tẩy với nhiều giọng điệu
ra đời, anh tự trào rằng “không ngờ Dạ Ngân đi đại học mà nền truyện ngắn Việt
Nam phát triển thêm một bước!”. Vũ điệu của cái bô, Thanh Minh, Thuế
giường, Gió heo may, Sông nước đời thường…
Từ năm 1993 trở đi, Nguyễn Quang Thân thành “giặc viết”
(cũng từ của anh). Có một Tết anh cày mười mấy cái truyện rải như bươm bướm từ
Bắc vào Nam để Dạ Ngân “có tiền rắc đường” (ý nói tiền tàu xe xuôi ngược Nam Bắc
thăm con). Cây bạch đàn vô danh xuất thần mang số phận của một cái sườn
tuyệt vời cho điện ảnh. Và anh cũng biết sau đó mình trơn tay với truyện ngắn
nên dừng lại để viết một tiểu thuyết nữa, Con ngựa Mãn Châu. Và rồi, dù
không còn bức xúc quá bởi cơm áo gạo tiền, Nguyễn Quang Thân lại thèm viết truyện
ngắn gọi là “nghỉ giữa hiệp” (tức trong khi chờ manh nha một tiểu thuyết khác).
Một vệt truyện lịch sử xoay quanh hai nhân vật chính là Nguyễn Du và Hồ Xuân
Hương được viết trong các năm từ 1996 đến 1998. Tôi xếp vệt truyện này sát nhau
ở cuối tuyển tập để bạn đọc nhấm nháp chúng như những chương đẹp của một tiểu
thuyết mỏng về một thời ngổn ngang, ưu uất của hai con người tài hoa bậc nhất.
Chúng ta gặp ở đây một nửa Nguyễn Quang Thân không giễu nhại không “ác mồm ác
miệng” mà thao thiết, sang trọng.
Chùm truyện ngắn đặc sắc nhất của anh Thanh minh, Chân
dung, Gió heo may, Vũ điệu của cái bô… đã tách riêng trong tập truyện
song ngữ Anh - Việt rất thành công nhờ bản dịch hay. Nhưng 20 truyện ở đây, chọn
từ hàng trăm truyện ngắn của anh là sự chọn lựa kỹ càng xếp theo thứ tự thời
gian chúng được viết ra. Cả 3 truyện trước 1975 vẫn không kém cạnh lắm dù những
cái kết không thể chối cãi rằng tác giả bị mắc mớ với phương pháp hiện thực xã
hội chủ nghĩa. Đặc biệt sau truyện ngắn Người không đi cùng chuyến tàu khiến
anh được liệt vào hàng “những nhà văn tiên phong đổi mới” thì anh đã được đúng
là anh: sắc nét, uy-mua, tài hoa, nhân bản. Sau tiểu thuyết Hội Thề viết
vắt từ Hà Nội vào Sài Gòn, anh chỉ viết truyện ngắn khi được các tòa báo đặt
hàng.
Bước sang tuổi tám mươi, bời bời thế sự, anh dành sự
náo nhiệt sục sôi cho báo chí. Anh làm web, chơi “phây”, bơi biển, thể dục… để
yêu quỹ thời gian còn lại ít ỏi của mình. Anh dừng viết văn, một người lão thực
biết đủ là đủ và thực sự là đủ.
Thanh Đa, tháng 9/2017