Bút ký của nhà
văn Nguyễn Minh Ngọc: “Nhiều nguyên do khiến cho ngày trở lại của tôi cứ bổi hổi
bồi hồi, ngỡ ngàng trước bao sự đổi thay. Cái thị xã nhỏ bé “nép một bên đường”
trong thơ Thanh Quế ngày nào đã nhường chỗ cho một thành phố trẻ tráng với một
diện mạo mới mẻ. Xe dừng ở một tiệm café có khuôn viên rợp bóng lá, mát mẻ.
Trong ba người, chỉ có nhà thơ Phan Hoàng là “thổ dân”, còn Phạm Sỹ Sáu và tôi
đều đến từ xứ khác, song chúng tôi đều có điểm chung là tình yêu dành cho nơi
“đất Phú, trời Yên”. Gọi điểm tâm bằng tô cháo sánh nhiễn ăn với chén cá cơm,
thêm mấy quả ớt hiểm xanh xanh, bé tẹo, thấy sao mà có lý! Tiếp chúng tôi trong
chốc lát, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên, anh Phan Đình Phùng mỉm cười
cho biết, giống ớt hiểm này chỉ mọc hoang trên triền núi, không gieo, không trồng
được. Lạ chứ. Quả là sau rất nhiều năm tôi mới lại được thưởng thức hương vị hạt
gạo Tuy Hòa, nó vừa thơm, lại vừa beo béo, chợt hiểu tình đất và người Phú Yên
sao mà đậm đà đến thế!”
TUY HÒA, NGÀY TRỞ LẠI
NGUYỄN MINH NGỌC
Những
ngày cuối tháng hè bỏng rát, tôi có dịp cùng với hai ông Phó chủ tịch Hội Nhà
văn Thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Sỹ Sáu và Phan Hoàng, ra Tuy Hòa tham dự Hội
sách tỉnh Phú Yên lần thứ nhất. Lên máy bay, ngồi chưa kịp ấm chỗ, đã nghe giọng
lảnh lót của cô tiếp viên xinh đẹp thông báo tàu… đang giảm độ cao để chuẩn bị
hạ cánh. Loang loáng một vùng duyên hải miền Trung vùn vụt lùi lại phía sau. Ngó
qua cửa sổ, ngay bên dưới cánh bay trải la đà mặt biển tựa như một tấm thảm biếc
xanh không một lượn sóng. Nhìn khoảng cách, tôi cứ ước thầm ngông ngông chút là
giá mà có chiếc cần câu, thì đã có thể “thò tay” buông xuống để thư giãn trong
giây lát! Chao ôi đẹp và thanh bình quá! Khi chiếc Airbus A320 từ biển ngoặt về
bên trái và nhắm hướng đường băng cắt vào, tôi nhìn rõ những cánh bay Hải Âu
L39 thanh thoát của Trung đoàn không quân 910 vẫn miệt mài bay huấn luyện. Đây
là loại máy bay do Tiệp Khắc (nay là CH Séc và Slovakia) chế tạo, được chuyển
giao cho Trường Không quân Nha Trang vào những năm đầu của thập niên 80 (thế kỷ
XX). Đội ngũ cán bộ chỉ huy, lãnh đạo trung đoàn này vốn là những đồng đội của
tôi ở Khánh Hòa. Từ cái nôi thân yêu
này, lớp lớp các phi công trẻ trưởng thành và bay lên làm chủ bầu trời, góp phần
giữ bình yên cho Tổ quốc.
Nếu
tôi không nhầm thì đâu như 20 năm trước (1997) Cục hàng không Việt Nam đã cho khôi
phục một phần để đưa Cảng hàng không Tuy Hòa vào sử dụng, khai thác đường bay
Tuy Hòa - Tân Sơn Nhất và ngược lại với tần suất khiêm tốn mỗi tuần 2 chuyến.
Tuy nhiên, với điều kiện kinh tế - xã hội lúc đó, có thể nói đây là một dự án
táo bạo, song cũng tựa như thứ trái cây hãy còn non mà ép chín. Thị trường luôn
đóng vai trò điều tiết các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do lượng hành khách
và hàng hóa hãy còn mỏng, thành thử dù rất xót xa vì mới tròm trèm đưa vào hoạt
động chừng một năm, cơ quan quản lý hàng không phải tạm đóng cửa sân bay. Nhìn
cảnh phi trường bỏ hoang, đón những ngọn gió Tuy Hòa “phóng túng”, “gió đi
ngang, đi dọc” thật nao lòng, nhưng biết làm sao được, bởi những năm đầu sau
khi tái lập tỉnh, Phú Yên vẫn là một địa phương nghèo nên chưa thể “cất cánh”!
Những
năm đầu thế kỷ XXI, sau khi Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam ký tiếp
nhận và bàn giao cảng Hàng không Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên cho Quân chủng
PK-KQ, Ban quản lý sân bay Tuy Hòa (còn gọi là sân bay Đông Tác) được thành lập.
Bộ Quốc phòng phê duyệt dự án xây dựng căn cứ sân bay Tuy Hòa để Trường sĩ quan
Không quân di chuyển toàn bộ Trung đoàn 910 từ Nha Trang ra đây huấn luyện. Từ
tháng 8-2003, tôi đã vài lần có mặt trong phái đoàn của Nhà trường ra nắm tiến
độ xây dựng sân bay. Hồi ấy, ngoại trừ hệ thống nhà vòm bê tông chứa máy bay kiên
cố và hệ thống đường cất hạ cánh được xây cất từ thập niên 60 là vẫn còn nguyên
vẹn, cơ sở hạ tầng hoang tàn, nhà cửa xập xệ. Không có hàng rào bảo vệ, một khoảng
trống mênh mông, thông thống, hút tầm mắt; sân bay trở thành bãi chăn thả lý tưởng
của những đàn bò béo mượt. Quả thật, những ngày trở lại với đất trời xứ Nẫu, ngó
quang cảnh ấy giữa nắng lửa chói chang và gió biển mặn mòi, ram ráp, đã có không
ít những người lính phải cố nén để khỏi vuột ra một tiếng thở dài, ngao ngán. Bởi
có biết bao khó khăn thử thách phía trước đang chờ họ. Ấy là với những người
lính bay, chứ còn với ngành hàng không là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn
của đất nước, họ quyết không bỏ cuộc. Bằng chứng là cũng ngay trong năm 2003,
đường bay từ Tuy Hòa đến Thành phố Hồ Chí Minh được nối lại với máy bay chở
khách loại nhỏ ATR-72. Mặc dù tần suất vẫn như cũ, song đây chính là sự chấp nhận
cuộc chơi lớn và là bước chuẩn bị cần thiết, hay đúng hơn là sự “gây men” cho một
dự án dài hơi tiếp theo.
Cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng,
Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam đã quyết định lần nữa, “đánh thức tiềm lực”
của một vùng đất. Sau 18 tháng đầu tư xây dựng mùa thu năm 2013, Cảng hàng không
Tuy Hòa được khánh thành và đưa vào khai thác sử dụng. Giờ đây, đã có ít nhất 3
hãng hàng không lớn là Vietnam Airlines, Jettar Pacific Airlines, VietJet Air mở
đường bay đến Tuy Hòa, kết nối với các thành phố lớn của đất nước. Điều này thực
sự góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh
duyên hải miền Trung, “đánh thức tiềm lực” của một vùng đất trù phú, thúc đẩy
việc khai thác tiềm năng du lịch, phát triển ngành “công nghiệp không khói” này
cùng các thế mạnh về nông sản, hải sản… Từ chỗ, chưa có tên trên bản đồ du lịch,
Phú Yên đã trở thành một điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Đứng
trước nhà ga Cảng hàng không Tuy Hòa, ngắm nhìn vòm mái công trình mang dáng vỏ
sò cách điệu, quả thật tôi không khỏi bất ngờ và cảm thấy thú vị, thân thiện
như chính với con người nơi đây.
*
Nhiều
nguyên do khiến cho ngày trở lại của tôi cứ bổi hổi bồi hồi, ngỡ ngàng trước
bao sự đổi thay. Cái thị xã nhỏ bé “nép một bên đường” trong thơ Thanh Quế ngày
nào đã nhường chỗ cho một thành phố trẻ tráng với một diện mạo mới mẻ. Xe dừng ở
một tiệm café có khuôn viên rợp bóng lá, mát mẻ. Trong ba người, chỉ có nhà thơ
Phan Hoàng là “thổ dân”, còn Phạm Sỹ Sáu và tôi đều đến từ xứ khác, song chúng
tôi đều có điểm chung là tình yêu dành cho nơi “đất Phú, trời Yên”. Gọi điểm
tâm bằng tô cháo sánh nhiễn ăn với chén cá cơm, thêm mấy quả ớt hiểm xanh xanh,
bé tẹo, thấy sao mà có lý! Tiếp chúng tôi trong chốc lát, Phó chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh Phú Yên, anh Phan Đình Phùng mỉm cười cho biết, giống ớt hiểm này
chỉ mọc hoang trên triền núi, không gieo, không trồng được. Lạ chứ. Quả là sau rất
nhiều năm tôi mới lại được thưởng thức hương vị hạt gạo Tuy Hòa, nó vừa thơm, lại
vừa beo béo, chợt hiểu tình đất và người Phú Yên sao mà đậm đà đến thế!
Nói
đến Phú Yên là nói đến một vùng địa văn hóa với lắm tầng nhiều vỉa miên man,
thăm thẳm. Một dải đất tựa hẳn lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, hai phía nam bắc
án ngữ bởi hai con đèo (Cù Mông và đèo Cả), mặt hướng ra biển Đông, thì quả là
thiên thời địa lợi. Vùng đất trù phú này gắn liền với tên tuổi của Lương Văn
Chánh, một võ tướng lừng danh từng đánh đông dẹp bắc và là người có tầm nhìn thấu
đáo, nhưng hơn hết ông có tấm lòng nhân ái, bao dong. Những năm cuối thế kỷ
XVI, các chúa Nguyễn nhận thấy miền biên ải phía Nam có vị trí cực kỳ trọng yếu,
nên sai người tài cầm quân trấn ải và phủ dụ dân chúng mở đất. Phụng mệnh chúa
Tiên Nguyễn Hoàng, Lương Văn Chánh đưa hơn bốn ngàn lưu dân vào khai phá vùng đất
phía Nam của Đại Việt, suốt một dải từ đèo Cù Mông đến tận đèo Cả. Suốt một dải
đất này, Lương Văn Chánh cho dân lập ấp, khẩn ruộng cày cấy, tạo dựng những
làng mạc đầu tiên trên vùng châu thổ sông Đà Diễn (tên cũ của sông Đà Rằng),
sông Cái. Sinh thời, Lương Văn Chánh được nhà Hậu Lê và các chúa Nguyễn ban nhiều
phẩm hàm, chức cao tước vọng.
Theo
thần phả để lại, Lương Văn Chánh mất ngày 19-9 năm Tân Hợi (1611) tại thôn Long
Phụng, làng Hòa Trị, phủ Tuy Hòa. Ngài được triều đình truy phong tước “Dục bảo
Trung hưng Thượng đẳng thần”. Đây không chỉ là niềm tự hào của một vùng đất, mà
điều quan trọng là người dân nối đời ngưỡng mộ, tự hào về bậc tiền hiền, họ lập
đền thờ và suy tôn Ngài làm Thành Hoàng. Bao năm giặc giã chiến tranh, nơi này
vẫn được người dân bảo bọc và giữ gìn nguyên vẹn. Thế mới biết, những gì được
Dân tôn thờ là vĩnh cửu! Khu mộ và đền thờ Lương Văn Chánh được Bộ Văn hóa
Thông tin công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngày nay, trường trung học
Lương Văn Chánh (với trên 70 năm thành lập), trường chuyên duy nhất của Phú
Yên, là một trong những cái “lò” đào luyện nhân tài…
Là
xứ sở được thiên nhiên hào phóng ban tặng cả một hệ thống cảnh quan phong phú,
đa dạng, địa hình Phú Yên vừa dải đồng bằng châu thổ phì nhiêu, vừa có núi và
cao nguyên; lại vừa có miên man sông, hồ, đầm, vịnh, v.v… với những vẻ đẹp rất
riêng, không nơi nào có được. Những địa linh như: Thạch Bi Sơn, gành Đá Dĩa, đầm
Ô Loan, Nhạn Tháp, núi Chóp Chài ngất ngưởng giữa cánh đồng vàng hay vịnh Vũng
Rô hun hút thẳm sâu..., gắn với lịch sử của ông cha thưở trước. Ca dao Phú Yên
có câu quá ư là bác học: “Lẻ loi như ngọn
núi Sầm. Thản nhiên như mặt nước đầm Ô Loan”. So với nhiều địa danh khác,
thì núi Sầm quả không có gì đặc biệt. Một ngọn núi bèn bẹt chỉ cao không quá 50
thước, nằm lọt thỏm giữa xã Hòa Trị, giữa ba bề bốn bên là cánh đồng lúa Tuy
Hòa ngờm ngợp và làng xóm. Gọi là núi nhưng kỳ thực đây chỉ là một dãy đồi thấp,
hình dạng tựa con trâu mẹp phủ phục với chu vi chừng một ngàn thước. Do vị trí
nằm án ngữ phía tây thị xã Tuy Hòa, nên trong hai cuộc kháng chiến, người Pháp,
người Mỹ và quân đội Sài Gòn đều thay nhau đóng đồn bót tại núi Sầm, nhằm trấn
giữ một yếu địa. Và nơi đây, từng xảy ra một số trận tao ngộ chiến khốc liệt, đẫm
máu. Để ghi nhớ và tri ân, năm 2012, một tượng đài chiến thắng được dựng lên tại
núi Sầm…
Một nhà thơ đương đại từng viết “sông Đà Rằng chọn nhầm miền Trung mà chảy”.
Tôi muốn nhắc đến hai thi sĩ của hai cuộc kháng chiến, tuy gốc gác của họ mãi tận
xứ Thanh, song cả hai ông đều gắn bó và nổi danh bởi đất Phú Yên. Đó là nhà thơ
Trần Mai Ninh, một trong những người mở đầu cho dòng thơ cách mạng và kháng chiến
hào sảng. Chỉ với “Nhớ máu” và “Tình sông núi”, Trần Mai Ninh đã tạo được một
phong cách riêng, với nghệ thuật trau chuốt, cô đúc và đặc biệt mới mẻ. “Sông Cầu của đất, nước này là duyên. Vũng Lấm
dăm lá thuyền. Nhiều dừa che ít mái tranh… Tuy Hòa ngay dọc ngõ. Dậy sáng - dịu
màu tươi”. Đầu năm 1947, trên đường vào công tác vùng sau lưng địch,Trần
Mai Ninh bị giặc bắt và tra tấn rất tàn ác. Chúng khoét hai con mắt của ông và
dong qua nhiều đường phố thị xã Tuy Hòa. Trần Mai Ninh ngã xuống khi tuổi đời
hãy còn rất trẻ, khả năng sáng tạo đang vào độ chín, sung mãn. Tiếc thay! Năm
2017 này, vừa chẵn 100 năm sinh và 70 năm Trần Mai Ninh mất. Xét về công trạng,
thì ông chưa có đóng góp gì nhiều. Nhưng
Trần Mai Ninh là một tượng đài thi ca, nhờ ông mà những ngọn gió Tuy Hòa có hồn
và trở nên bất tử, khiến cho bao người ngưỡng mộ, yêu mến mảnh đất Phú Yên! Tôi
cứ ao ước trong một tương lai gần, thành phố Tuy Hòa sẽ có một con đường mang
tên Trần Mai Ninh. Được vậy, chắc sẽ thỏa “Tình sông núi” và mát dạ người thi
sĩ đã trọn đời dâng hiến cho Tổ quốc!
Hơn
30 năm sau, thời chống Mỹ, có một chàng thanh niên xứ Thanh vừa tốt nghiệp đại
học đã tình nguyện vào chiến trường (1971), làm phóng viên Tạp chí Văn nghệ Giải phóng khu Năm. Có lẽ vì quá
mê tài thơ Trần Mai Ninh, nên Vũ Xuân Mai đã chọn bút danh là Trần Vũ Mai. Tôi
đã đến thăm ngôi làng ở Phú Yên, nơi Trần Vũ Mai có trường ca “Ở làng Phước Hậu”.
Mặc dầu thi sĩ đà khuất núi, song nhiều anh em bè bạn vẫn khôn nguôi nhớ những
vần nhật ký thơ: “Những gì anh chưa làm được. Để sau đó có những người đã hát.
Một vài khúc ca cảm tạ nhân gian. Cảm tạ bầu trời Cực Nam lồng lộng. Có một phần
xanh thẳm của riêng anh”.
Nói
đến Phú Yên, lịch sử đương đại không thể không nhắc đến sự kiện Vũng Rô gắn với
đội “tàu không số” cuối 1964, đầu 1965. Từng có vài lần “bám càng” trực thăng
Mi-17 qua lại nơi này, từ trên cao quan sát thấy rõ vịnh Vũng Rô chênh vênh, được
bao bọc bởi Đèo Cả, Đá Bia và Hòn Bà. Che chắn ở phía Nam là Hòn Nưa tựa như một
pháo đài. Nơi đây gắn với tên tuổi của một người con anh hùng của Phú Yên, đó
là Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh, chỉ huy con tàu 41 của Hải quân Việt Nam, mở bến
Vũng Rô vào trung tuần tháng 11-1964. Sau ba chuyến trót lọt, đến chuyến thứ
tư, con tàu 143 chở hơn 63 tấn vũ khí cập bến, bốc dỡ hàng xong thì trời sáng
bét. Các thủy thủ đành neo tàu lại và ngụy trang. Tình cờ, chiếc trực thăng
UH-1B bay từ Quy Nhơn về Nha Trang, do một trung úy phi công Mỹ lái, lúc ngang
qua vịnh, y tinh quái phát hiện “mỏm đá lạ nhô ra gần vách núi” phía tây Vũng
Rô mà lúc trước chưa hề thấy. Lập tức, viên phi công cấp báo với chỉ huy. Địch
cho máy bay đến ném bom và phóng tên lửa, đồng thời vây kín vịnh Vũng Rô. Các
thủy thủ tàu 143 cùng du kích Hòa Hiệp cho nổ phá tàu, và rút lên núi. Tiếc
thay khối thuốc nổ 500kg không đủ sức phá hủy con tàu, mà chỉ khiến nó gãy đôi
và chìm. Bây giờ, vị trí con tàu 143 năm xưa trên vịnh Vũng Rô vẫn được lưu giữ,
gây xúc động. Thời gian đi qua, song “sự kiện Vũng Rô” bi tráng thì vẫn còn động
mãi trong tâm trí của nhiều thế hệ.
Dường
như những gì tiêu biểu và đặc sắc của Phú Yên đều dồn hết cả về miệt Tuy An thì
phải? Từ đầu thế kỷ XX, cụ Giải nguyên Trần Văn Phổ, quê ở làng Tùng Ảnh, Đức
Thọ, Hà Tĩnh, được bổ về làm Giáo thụ Tuy An. Cả gia đình cụ sinh sống ở thành
An Thổ, phủ Tuy An (nay thuộc xã An Dân, huyện Tuy An, Phú Yên) và cậu bé Trần
Phú chào đời ngày 1-5-1904. Và 27 năm sau, với việc khởi thảo bản Luận cương về
cách mạng tư sản dân quyền, Trần Phú trở thành Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Trước lúc mất, ông để lại câu nói bất hủ: “Hãy giữ vững chí khí
chiến đấu!”.
Tuy
An có đầm Ô Loan, một thắng cảnh cấp quốc gia của Việt Nam và là một trong những
danh thắng tiêu biểu của Phú Yên. Là vùng nước lợ nằm dưới chân đèo Quán Cau,
phía nam thị trấn Chí Thạnh, đầm Ô Loan rộng hơn 17,5km2 với món đặc
sản trứ danh là sò huyết và tôm hùm. Riêng món sò huyết nức tiếng đến mức đám
con buôn láu cá phải kỳ công mang sò huyết từ xứ khác đến dúng xuống nước đầm Ô
Loan rồi đem về, coi như một sự đánh tráo “thương hiệu” nhằm qua mặt đám bợm nhậu!
Nhưng nếu ai đã từng thưởng thức món sò huyết đầm Ô Loan thì hẳn không dễ bị mắc
lừa. Bao quanh mặt đầm là núi Đồng Cháy, núi Cấm và cồn An Hải, tạo nên một
vùng sơn thủy hữu tình. Từ thành phố Tuy Hòa, ngược theo hướng Bắc trên con đường
thiên lý (quốc lộ 1A) chừng độ 30km, đến Chí Thạnh thì quẹo phải, chạy thêm chừng
một khúc dao quăng (12km) nữa đến địa phận xã An Ninh Đông, là gặp ngay “dấu
thiên đường”. Đó là gành Đá Dĩa, một điểm nhấn thiên tạo độc nhất vô nhị ở Việt
Nam, nó kỳ vĩ đến độ khiến du khách quên lối về. Chỉ tiếc là sản phẩm du lịch ở
đây còn khá sơ sài, đơn điệu…
Được
nghe danh tiếng từ lâu, nhưng lần đầu tiên tôi mới có dịp viếng thăm Nhà thờ Mằng
Lăng, ngay sau lễ Phục sinh. Được người Pháp xây dựng vào năm 1892, tọa lạc bên
bờ sông Kỳ Lộ (sông Cái), đây là một trong những nhà thờ Công giáo lâu đời nhất
ở Việt Nam. Điều đặc biệt, mỗi khi nhắc đến nhà thờ, người dân địa phương thường
tự hào bởi nơi này lưu giữ cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên của Linh mục Đắc Lộ
(Alexandre de Rhodes) được xuất bản vào năm 1651 tại Roma (Ý). Rời nhà thờ,
trên đường trở ra, chúng tôi ngang qua xã An Thạch, quê hương của nhà văn Võ Hồng
(1922-2013). Mới hiểu vì sao ông còn có bút danh khác là Võ An Thạch. Vốn là một
nhà giáo, hồi chín năm kháng chiến, ông từng làm Hiệu trưởng trường trung học
Lương Văn Chánh, Phú Yên. Nhiều thế hệ học trò của ông thành danh và có những
đóng góp nhất định cho xã hội. Là một nhà văn tiêu biểu ở các đô thị miền Nam
giai đoạn 1954-1975, nhà văn Võ Hồng vừa dạy học vừa cầm bút và ông để lại một
khối lượng tác phẩm đồ sộ. Nhưng năm cuối đời, nhà văn định cư ở Nha Trang,
ngôi nhà 53 Hồng Bàng là một địa chỉ quen thuộc của nhiều nhà văn, nhà thơ cùng
đông đảo các độc giả yêu văn chương.
Tại
thôn Trung Lương, xã An Nghiệp, huyện Tuy An, có một gia đình đặc biệt đã sản
sinh ra một nhạc sĩ tài ba và một thi sĩ tài hoa. Nhạc sĩ Nhật Lai, tên khai
sinh là Nguyễn Tuân (1931-1987) là một hiện tượng độc đáo của nền âm nhạc Việt
Nam hiện đại. Tác phẩm của ông đa dạng, bao gồm: nhạc kịch, nhạc múa, ca kịch,
khí nhạc, ca khúc… Nhạc phẩm “Hà Tây quê
lụa” của Nhật Lai được chuyển tải qua giọng của nghệ sĩ Quốc Hương, trở
thành một ca khúc bất hủ. Người em ruột của nhạc sĩ Nhật Lai là nhà thơ Nguyễn
Mỹ (1935-1971) nổi tiếng với “Cuộc chia
ly màu đỏ”, được xếp trong 100 bài thơ Việt hay nhất thế kỷ XX. Cả hai anh
em đều tập kết ra Bắc, năm 1968, Nguyễn Mỹ trở lại chiến trường miền Nam. Là
phóng viên báo Cờ giải phóng Trung Trung bộ, Nguyễn Mỹ hy sinh
trong một trận càn của lính Mỹ bên bờ sông Đăkta, thuộc địa bàn huyện Trà My,
Quảng Nam. Cả hai anh em Nhật Lai, Nguyễn Mỹ đều được truy tặng Giải thưởng Nhà
nước về văn học nghệ thuật.
Ở
xã An Chấn, huyện Tuy An có một nhà văn gạo cội là Thanh Quế. Lên 10 tuổi, cậu
bé Phan Thanh Quế theo cha tập kết ra Bắc. Tốt nghiệp khoa Sử trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội, ông trở về Nam chiến đấu ở chiến trường khu Năm khốc liệt. Hàng chục tác phẩm của ông với nhiều thể loại:
thơ, truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, lý luận phê bình… song đặc sắc nhất
vẫn là truyện ngắn. Dễ gì quên được những thiên truyện gắn với quê hương Phú
Yên, như: “La Hai”, “Dì Út và người khách ấy”, “Mai”… Thanh Quế được nhận Giải thưởng
Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007. Và cậu con trai út của anh, Phan Tuy
An cũng từng nổi danh một thời bởi năng khiếu thơ phát lộ…
Nói
đến Phú Yên, không thể không đề cập đến các lớp vỉa phong phú, đa dạng của địa
tầng văn hóa, làm nên bản sắc và con người xứ Nẫu thông minh, tài hoa. Ngày thơ
Nguyên tiêu Phú Yên được hình thành cách nay gần 30 năm, nó được khởi đầu từ
Thư viện Hải Phú, rồi dịch chuyển dần ra chân Nhạn Tháp. Đêm thơ Nguyên tiêu trở
thành ngày hội thi ca của đông đảo người dân nơi đây, không phân biệt nhà thơ
chuyên nghiệp hay không chuyên, ai cũng có quyền trình bày những thi phẩm yêu
thích. Đến cuối thập niên 80, dù đơn vị hành chính là tỉnh Phú Khánh không còn tồn
tại, song anh chị em văn nghệ Phú Yên, Khánh Hòa vẫn dành cho nhau tình thương
mến và quý trọng. Những năm ở Nha Trang, tôi may mắn có vài lần được ra dự đêm
thơ Núi Nhạn, được đắm mình trong không gian rời rợi bóng trăng với âm hưởng
huyền ảo, thật là những kỷ niệm khó quên. Nếu ngày thơ Việt Nam hiện tại ở nhiều
địa phương tổ chức èo uột, chật vật, thì trái lại ở Phú Yên ngày càng “nở nồi”.
Đặc biệt, đây là địa phương có rất nhiều xã, phường, cũng tự làm được đêm thơ
đường hoàng mà không cần đòi hỏi kinh phí. Quả thật, ngày thơ trở thành một sân
chơi rộng rãi của người dân, bình dị mà không tầm thường, say đắm mà vẫn thanh
tao. Quả thật, hiếm có nơi đâu trên đất nước này có được số lượng công chúng yêu
thơ, say thơ đến vậy như ở Phú Yên, nhất là trong bối cảnh thơ lạm phát như hiện
nay. Từ đêm thơ Nguyên tiêu, đến hoa hậu Nguyên tiêu, người Phú Yên thực sự thổi
hồn vào một sự kiện văn hóa, khiến cho sự kiện này thêm tỏa sáng lung linh và
trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu, làm nên dấu ấn sâu đậm của một vùng
đất. Và giờ đây là Hội sách lần đầu tiên của tỉnh được tổ chức ngay trong sân
trường Đại học Phú Yên, cũng nằm trong mạch nguồn dồi dào ấy.
*
Xin
được ngược dòng thời gian một chút. Vào giữa thập niên 80, khi đã trở thành công
dân của tỉnh Phú Khánh, tôi cùng một số anh chị em cầm bút có chuyến đi thực tế
tại công trình thủy điện Sông Hinh. Ngày ấy, giữa chốn rừng xanh núi đỏ thuộc
huyện mới Sông Hinh, nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, mọi thứ
dường như mới bắt đầu manh nha. Ngoài mấy cỗ máy khoan đang miệt mài thăm dò và
lều lán tạm bợ của công nhân, nhìn ra chưa thấy gì. Những năm ấy, nền kinh tế của
đất nước đang khánh kiệt, thực sự, tôi đã nghĩ đến chuyện làm thủy điện giống
như một giấc mơ giữa ban ngày! Ấy vậy mà sau một đêm lửa trại, trò chuyện và đối
thoại thẳng thắn với Trưởng ban Quản lý công trình thủy điện Sông Hinh lúc đó
là anh Nguyễn Thành Quang (Ba Quang) chúng tôi đã vỡ ra nhiều điều. Và ngay từ
lúc ấy, tôi cảm nhận sự mến mộ anh Ba Quang, bởi ngoài kiến thức sâu rộng, anh
còn khá am hiểu văn chương và những người cầm bút.
Được
khởi công từ năm 1993, nằm trên địa phận xã Ea Trol, cách thị xã Tuy Hòa chừng
35km về phía tây nam, công trình thủy điện Sông Hinh được hoàn thành vào năm
2001, gồm hai tổ máy, công suất 70 MW. Hòa vào lưới điện quốc gia, thủy điện
Sông Hinh đã thắp sáng niềm mơ ước của người dân vùng căn cứ cũ. Nơi ấy là quê
hương của nhà văn Y Điêng, người dân tộc Êđê…
Sau
ngày chia tách tỉnh Phú Khánh, tôi không có dịp gặp lại anh Ba Quang. Chỉ nghe
loáng thoáng là anh bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ ở nước ngoài. Và anh trở
thành người lãnh đạo cao nhất tỉnh Phú Yên. Theo dõi bước đi của anh, thấy điều
ấy là hiển nhiên. Là một
trong những Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, anh Ba Quang để lại dấu ấn sâu sắc thời đổi
mới và hội nhập của quê hương mình. Do hoàn cảnh nên con đường vươn lên đỉnh
cao tri thức của anh không suôn sẻ, nhưng bằng nỗ lực của bản thân, từ một cán
bộ lãnh đạo chính trị anh đã trở thành nhà khoa học quản lý, có những đóng góp
cho quê hương.
Trước lúc chia tay, từ chiều, Phan Hoàng thông báo: “Tối nay,
anh Ba Quang mời cơm!”. Nghe nói anh vừa mới trở về từ Hàn Quốc, sau đợt kiểm
tra sức khỏe. Khi chúng tôi đến nơi, đã thấy anh Ba chờ sẵn, cùng với anh Hoàng
Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và một vài anh em khác. Được trò chuyện
với các anh, được biết, nay mai, sân bay Tuy Hòa sẽ lắp đặt hệ thống đèn hàng
hành, để các hãng tàu bay sẽ khai thác những chuyến bay đêm. Vâng, tôi tin Phú
Yên sẽ cất cánh!