Gần đây, có một cây bút thơ viết “Bỗng thành triệu
phú ngẩn ngơ”, liền được một nhà thơ
bình rằng là một trong số định nghĩa thi sĩ hay nhất. Thôi thì có thể bột phát
thành thơ, và cũng có thể cao hứng tán dương nhau, nhưng đã đem in lên sách báo
thì phải chịu sự bình giá của dư luận. Vậy có phải thật nhà thơ là triệu phú ngẩn
ngơ? Không biết tất cả các nhà thơ và những người yêu thơ có đồng tình với định
nghĩa này? Cứ theo câu chữ thì cả người viết lẫn người bình đều khoái trí với từ
ngẩn ngơ này lắm. Vậy chẳng lẽ thi sĩ là những người ngẩn ngơ? Cứ theo
quan niệm của dân gian thì ngẩn ngơ là để chỉ những người thần kinh không bình
thường. Còn theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Trung tâm từ điển học
và Nhà xuất bản Đà Nẵng in năm 2002 thì Ngẩn ngơ: ở trạng thái như không còn
chú ý gì đến xung quanh, vì tâm trí đang để ở đâu đâu...
NGHĨ TIẾP VỀ THƠ
ĐINH QUANG TỐN
1.
Thơ thời sự chính trị và thơ nỗi niềm riêng
Trong nền thơ cũng như trong mỗi nhà thơ thường tồn
tại cả hai dạng thơ này. Trước đây thỉnh thoảng tôi lại được những người làm
thơ khoe những bài thơ không đăng được, và họ thường hy vọng khi công bố nó sẽ
thành thơ của muôn đời! Vâng, rất cầu chúc cho nó được như thế. Nhưng thực tế
thì đa phần đó là sự lầm tưởng. Thơ của muôn đời ư? Ai bảo Thơ Thần của Lý Thường
Kiệt, thơ Mừng xuân 1968 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bài thơ Tự do và tình yêu của
Pêtôpi (Hunggari) không phải là thơ của muôn đời? Đó là thơ thời sự chính trị một
trăm phần trăm. Nhưng để có được những bài thơ ấy tác giả của nó phải cả một đời
sống cho lý tưởng ấy, trải nghiệm và nung nấu. Đó là thơ phát ra từ hồn của họ,
cũng là hồn của dân tộc, hồn của đất nước trong thời khắc lịch sử. Ta thử đọc
bài thơ của Pêtôpi:
Tự do và tình yêu
Vì hai điều tôi sống
Vì tình yêu lồng lộng
Tôi xin hiến đời tôi
Vì tự do muôn đời
Tôi hy sinh tình ái
Đó là tiếng nói của lý tưởng hòa quện cùng tiếng nói
của trái tim mà phát ra, mà tỏa sáng. Bây giờ nói đến lý tưởng nhiều bạn trẻ
không mấy mặn mà. Nhưng thực tế thì ai cũng có một lý tưởng. Có điều cách hiểu
về lý tưởng mỗi người một khác, và nó có tính lịch sử cụ thể của nó. Chứ không
có lý tưởng thì con người chỉ là tồn tại, đâu phải là sống!
Còn thơ nỗi niềm riêng, tôi cũng thấy những bài để đời
thấm đẫm lý tưởng. Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thơ nỗi niềm riêng
100% từ hình thức đến nội dung. Người viết để tự nhủ, tự răn mình đấy chứ có phải
để công bố đâu! Những tâm hồn lớn niềm riêng thống nhất với nỗi chung. Nỗi đau
nỗi buồn của họ cũng là nỗi đau buồn của thời đại. H.Hainơ (Đức) đau buồn mà
không yếu đuối, trong bài thơ Tim ta ơi! Đừng nên u uất:
Tim ta ơi! Đừng nên u uất
Số phận mình gắng chịu cho quen
Những cái gì mùa đông cướp mất
Xuân mới về sẽ trả cho em…
Thì thật khó phân biệt đây là thơ nỗi niềm riêng hay
thơ thời sự chính trị? Phải chăng tất cả những bài thơ bất tử đều như vậy? Khi
một bài thơ để mọi người thấy được đó là thơ thời sự chính trị hoặc thơ nỗi niềm
riêng thì đều là những bài thơ còn non. Có phải thế chăng mà một danh nhân đã
nói: Mọi bài thơ đều có tính thời sự. Và nhà thơ nổi tiếng Eptusencô (Nga) có
hai tập thơ độc đáo Trữ tình công dân và Trữ tình riêng tư. Trong tập thơ Trữ
tình công dân thì gồm phần lớn thơ mà chúng ta thường gọi là thơ nỗi niềm
riêng, và ngược lại tập thơ Trữ tình riêng tư lại gồm đa phần thơ có tính thời
sự chính trị. Thì nhà thơ cũng thấy không hề có ranh giới hai loại thơ này
chăng?
Nhưng trong thực tế vẫn có hai loại thơ ấy. Nó mang
dấu ấn thời đại và phong cách của từng nhà thơ. Tài năng của mỗi nhà thơ là
không để có dấu vết của hai loại thơ này. Sao cho mỗi bài thơ phải tự nhiên như
hơi thở, như nắng trời. Thơ càng có dấu vết tạo dựng thì tác giả của nó chỉ là
thợ thơ. Còn những thi sĩ đích thực những bài thơ bao giờ cũng thấm đẫm nỗi niềm
và tỏa ra ánh sáng tư tưởng, được mọi người mặc nhiên đón nhận.
2.
Phải chăng nhà thơ là triệu phú ngẩn ngơ?
Đã có biết bao nhiêu định nghĩa về nhà thơ của các
nhà thơ, các nhà nghiên cứu phê bình thơ, các viện ngôn ngữ, trung tâm từ điển
và công chúng yêu thơ… Mỗi người một kiểu, thật khó thống nhất. Nhưng người ta
dễ thống nhất khi nhìn vào các nhà thơ cụ thể qua tác phẩm của họ. Tuy nhiên, đến
thời cơ chế thị trường thì mọi chuyện cũng lại không đơn giản. Có những người
viết được người này đề cao nhưng người khác lại cho là rất kém. Có những tập
thơ người này cho là hay, người khác lại không thừa nhận đó là thơ… Sự nhiễu loạn
này, theo tôi là từ chính những người liên quan đến thơ, mà trước hết là các
nhà thơ và các nhà phê bình thơ.
Khái niệm nhà thơ mà mọi người hiểu thông thường đó
là những người có tâm hồn lãng mạn, mơ mộng. Xuân Diệu trước cách mạng từng viết:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió/ Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây; trong kháng
chiến chống Mỹ ông lại viết: Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ
mồ hôi, cùng sôi giọt máu… Như vậy, nhà thơ cũng thay đổi theo thời đại, và phải
được thời đại chấp nhận.
Gần đây, có một cây bút thơ viết: Bỗng thành triệu
phú ngẩn ngơ, liền được một nhà thơ bình
rằng là một trong số định nghĩa thi sĩ hay nhất. Thôi thì có thể bột phát thành
thơ, và cũng có thể cao hứng tán dương nhau, nhưng đã đem in lên sách báo thì
phải chịu sự bình giá của dư luận. Vậy có phải thật nhà thơ là triệu phú ngẩn
ngơ? Không biết tất cả các nhà thơ và những người yêu thơ có đồng tình với định
nghĩa này? Cứ theo câu chữ thì cả người viết lẫn người bình đều khoái trí với từ
ngẩn ngơ này lắm. Vậy chẳng lẽ thi sĩ là những người ngẩn ngơ?
Cứ theo quan niệm của dân gian thì ngẩn ngơ là để chỉ
những người thần kinh không bình thường. Còn theo Từ điển tiếng Việt của Viện
ngôn ngữ học do Trung tâm từ điển học và Nhà xuất bản Đà Nẵng in năm 2002 thì
Ngẩn ngơ: ở trạng thái như không còn chú ý gì đến xung quanh, vì tâm trí đang để
ở đâu đâu. Vì vậy, tôi rất nghi ngờ cái định nghĩa nhà thơ là triệu phú ngẩn
ngơ, nhất là ở thời buổi kinh tế thị trường này! Trước đây, Xuân Diệu đã phải
thốt lên: Cơm áo không đùa với khách thơ! Ngày nay mà cứ triệu phú ngẩn ngơ thì
chết đói là phải. Cứ triệu phú ngẩn ngơ thì như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp gọi là
lũ giặc già lăng nhăng thơ phú cũng không oan!
Nhìn vào lịch sử thơ Việt Nam và thơ thế giới thì thấy
các nhà thơ trước hết cũng là người bình thường. Ai đó đã nói: Mọi người sinh
ra đều có tâm hồn thi sĩ. Còn các nhà thơ là những người giữ mãi được tâm hồn
thi sĩ ấy và phát triển nó lên mà thôi. Nguyễn Trãi, danh nhân văn hóa thế giới,
người viết câu thơ lãng mạn bậc nhất: Đêm qua trăng sáng trời như nước/ Mộng cưỡi
hạc vàng lên đàng tiên lại chính là người dâng Bình Ngô sách và làm quân sư cho
Lê Lợi mười năm kháng chiến chống giặc Minh.
Đại thi hào Nguyễn Du thì lệ chảy quanh thân Kiều,
nhưng đâu phải là người ngẩn ngơ, ông đã dựng bản cáo trạng tố cáo chế độ cường
quyền thối nát chà đạp quyền sống của con người, bênh vực những người lao khổ,
đặc biệt là người phụ nữ với câu thơ thấm đẫm giá trị nhân đạo truyền mãi đến
muôn đời: Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung!...
Đa số các nhà thơ của chúng ta đều có công việc để sống,
và từ những công việc, những hoạt động xã hội mà chúng ta gọi là hiện thực cuộc
sống, những bài thơ đã ra đời. Một số nhà thơ làm công tác lãnh đạo chính trị
như Sóng Hồng, Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm thì phải tỉnh táo cả trong chỉ đạo công
việc và cả trong sáng tác thơ. Nhưng những bài thơ của họ vừa phục vụ xã hội vừa
thấm đẫm chất mộng mơ nghệ sĩ. Một bộ phận khá đông các nhà thơ của chúng ta
biên chế trong các tòa báo. Họ vừa phải ứng chiến kịp thời trước những vấn đề
do cuộc sống đặt ra, vừa sáng tác thơ. Những bài thơ của họ vẫn được xã hội,
các nhà thơ và công chúng yêu thích. Một bộ phận khác các nhà thơ thì làm doanh
nghiệp.
Công việc sản xuất và kinh doanh đâu cho phép họ là
triệu phú ngẩn ngơ bởi thương trường là chiến trường, ngẩn ngơ là tự sát. Còn
thường thường, mỗi nhà thơ một công việc, họ vừa hoàn thành nhiệm vụ của một
công chức, họ vừa làm thơ. Công việc của một công chức đòi hỏi họ phải tập
trung sức lực và trí tuệ. Và theo tôi, mọi nhà thơ dù mộng mơ đến đâu, khi sáng
tác cũng phải tập trung trí tuệ thì thơ mới có được sức sống, bởi trời không chịu
tự nhiên cho ai một cái gì mà nó không có lô gíc, không có quy luật.
Nhà thơ Tố Hữu có nói đến hai xu hướng thơ: Đốt cháy
trái tim đến thành trí tuệ chính là N. Hítmét, đốt cháy trí tuệ đến thành trái
tim đã có B. Brếch đấy rồi! Còn các triệu phú ngẩn ngơ phải chăng là loại thứ
ba mà Chế Lan Viên nhắc đến: Có thơ, nhưng lại cũng có cái thẩn thơ, thơ thẩn
đó chăng?