Thật là đẹp đẽ và cảm động mà cũng thật là kỳ lạ: những
nhà thơ bộ đội Việt Nam và những nhà thơ vốn là lính chiến Hoa Kỳ, giờ đây bên
nhau mạn đàm về văn học của hai đất nước, đọc cho nhau nghe và bàn luận với
nhau về những bài thơ của nhau. Mà không chỉ các nhà văn nhà thơ, trong đông đảo
cử tọa dự hội thảo cũng có rất nhiều người từng là lính ở chiến trường Việt
Nam. Họ từ nhiều nơi của bang Montana đã vượt đường xa về Missoula nghe mạn đàm
chuyện thơ văn Việt - Mỹ, và cũng là để gặp gỡ "những người Việt Cộng",
đối thủ của mình ngày xưa. Cảnh sát trưởng Missoula, ông Pete Lawrenson, từ năm
1970 tới 1972 là sĩ quan cố vấn của lực lượng Biệt động quân Sài Gòn đồn trú ở
Kon Tum. Khi biết tôi nguyên là lính Sư đoàn 10 bộ binh mà thuở xưa đơn vị của
ông đã bao lần đụng độ, Pete Lawrenson mừng như là được gặp lại một người bạn
đã nhiều năm xa cách.
GẶP LẠI NGƯỜI MỸ
BẢO NINH
Mùa hè năm 1998, đoàn nhà văn Việt Nam gồm nhà văn
Lê Văn Thảo, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu và tôi sang Mỹ dự
cuộc hội thảo do Trung tâm Mansfield tổ chức. Chuyến bay quá dài, chênh lệch
nhiều múi giờ nên khi máy bay hạ cánh tôi vẫn đang ngủ. Mặc dù là lần đầu tiên
bước vào ngưỡng cửa nước Mỹ, nhưng vì hành khách trên chiếc 747 đều là người Á
châu nên tôi đã không có một ấn tượng gì đặc biệt ngay khi vừa xuống phi trường.
Nhưng, khi đã qua xong cửa nhập cảnh, vào đến trong sảnh lớn thì bất giác, giật
mình: quanh tôi toàn là Mỹ! Nỗi kinh ngạc ấy tuy chỉ là trong chốc lát,
song cái thoáng chốc đó tôi còn nhớ mãi, bởi đấy thật sự là một trong những thời
khắc lạ lùng nhất tôi từng trải qua. Lạ lùng, khó tin, thậm chí siêu thực nữa:
chúng tôi, những cựu chiến binh Quân đội Nhân dân Việt Nam, đang đứng ngay trên
nước Mỹ, giữa những người Mỹ!
Lần đầu tiên trong đời mình tôi nhìn thấy người Mỹ
là vào ngày 5-8-1964. Không hẳn là "người Mỹ" mắt xanh tóc vàng, mà
là những chiếc Con Ma, máy bay ném bom F4. Hôm đó là ngày ngay sau "Sự
kiện vịnh Bắc Bộ", ngày mà chính quyền Johnson quyết định mở rộng cuộc chiến
tranh ra toàn cõi nước Việt Nam, khởi đầu bằng trận ném bom bất ngờ và dữ dội
xuống vùng bờ biển vịnh Hạ Long, nơi tôi đang cùng các bạn học đi cắm trại và tắm
biển tại đó. Với tôi, khi đó, 12 tuổi, việc Mỹ ném bom Việt Nam, một đất nước
cách xa Mỹ vạn dặm đại dương, là hành động chiến tranh xâm lược hiển nhiên.
Sau 10 năm hòa bình, người dân Hà Nội bắt đầu lâm cảnh
chiến tranh. Cuộc sống bị đảo ngược đột ngột. Tiếng còi báo động rú lên trong
đêm khuya. Hầm tránh bom được đào dọc khắp các tuyến phố và trong mọi
ngôi nhà. Điện, nước bị cắt giảm. Ánh đèn thành phố bị giảm mức
sáng. Lương thực, thực phẩm, vải vóc, nhiên liệu, cả sách vở giấy
bút... mọi nhu cầu thiết yếu của đời sống các gia đình đều phải phân phối
theo tem phiếu và không đủ, thường xuyên có những dòng người xếp hàng chờ đợi
trước các cửa hiệu. Trẻ em, từ 17 tuổi trở xuống, phải xa bố mẹ và rời bỏ
thành phố để sơ tán về nông thôn. Tôi nghĩ hoàn cảnh của chúng tôi khi đó giống
với trẻ nhỏ ở London vào mùa hè năm 1940, chỉ khác là trẻ em Hà Nội phải chịu cảnh
ngộ đó lâu dài hơn (từ 1964 tới 1973) và gian khổ hơn nhiều. Tuy nhiên những
cuộc ném bom dữ dội của Mỹ dù gây ra thảm kịch chết chóc và đổ nát tan hoang
cho Hà Nội, nhưng không tạo ra nổi sự hoảng loạn và suy sụp tinh thần trong đại
bộ phận dân chúng như Lầu Năm Góc hy vọng. Nhất là đối với những người trẻ tuổi
như tôi hồi đó, thì chính những trận oanh tạc của không quân Mỹ đã thôi thúc
chúng tôi nhập ngũ.
Khi nhập ngũ tôi không ảo tưởng về số phận của bản
thân mình. Tôi không phải người can đảm, tôi không nhanh nhẹn, không tháo vát,
cố nhiên không phải người giỏi trận mạc, do vậy, tôi biết mình rất ít khả năng
sống sót qua các trận chiến. Nhưng tôi lại cũng tin rằng dù tôi sống hay chết,
người Việt Nam chúng tôi cũng sẽ đánh lui được quân xâm lược và thống nhất được
đất nước, Mỹ phải rút lui khỏi Việt Nam. Năm 1970, Nixon bắt đầu chiến lược
Việt Nam hóa chiến tranh, với mục đích làm giảm dần thương vong của người
Mỹ (mà ông ta nói là để thay đổi màu da xác chết!). Tuy nhiên cường độ của cuộc
chiến không hề suy giảm. Chúng tôi vẫn hàng ngày hàng giờ nhìn thấy người Mỹ. Đấy
là những người Mỹ - lính không quân - trút bom xuống từ trên tầm
cao hàng ngàn thước của Pháo đài bay B52, và những người Mỹ - lính pháo binh -
nã đại bác từ tầm xa hàng cây số của các loại trọng pháo 105 ly, 155 ly, 175
ly, mà cứ mỗi lần bắn là hàng chục khẩu đồng loạt, chúng tôi gọi là "pháo
bầy". Mỗi đợt bom B52, mỗi loạt pháo bầy dập xuống có thể xô đổ cả một
triền núi, vùi lấp một triền sông, thiêu cháy một đại ngàn. Và cận cảnh nhất
là lính Mỹ của các phi đoàn trực thăng vũ trang. Họ vẫn hiện hữu trực diện trên
chiến trường, họ vẫn bay rợp trời, cho đến tận năm 1973. Chúng tôi vẫn ngày qua
ngày bắn nhau với họ ở tầm rất gần. Đấy là những phi công lái trực thăng Cobra
AH1G, những xạ thủ bắn đại liên M60 từ cửa khoang trực thăng "huey"
HU1A. Đặc biệt thấy rõ nhất là lính Mỹ trên những U-ti-ti. Loại trực thăng
này luôn bay rất thấp, là sát ngọn cây rừng và luồn cả vào trong lòng khe núi,
nên chúng tôi trông thấy rõ bản mặt của tổ lái hai người. Thấy màu da, màu tóc
của họ. Họ là những người thiện chiến và rất liều lĩnh. Họ có thể bay treo
tại chỗ cách miệng hầm của chúng tôi chỉ vài thước, nã M60 hoặc ném lựu đạn
u-ét xuống hầm, và tất nhiên, họ cũng rất dễ bị chúng tôi bắn rụng bằng AK47 hoặc
trung liên RPD.
Sau chiến tranh, trở về với cuộc sống của người dân
thường đã nhiều năm, mà ban đêm tôi vẫn luôn nằm mơ thấy chiến tranh. Trong giấc
ngủ, tôi nghe thấy tiếng rít của những loạt bom hàng trăm quả trút xuống từ máy
bay B52, nghe thấy tiếng gầm cấp tập của những dàn pháo bầy, nghe thấy tiếng
cánh quạt của trực thăng vũ trang, nhìn thấy những trung đội Mỹ mũ sắt áo giáp
xách M16 đổ bộ xuống từ trực thăng Chinook CH47... Và ghê sợ nhất trong tâm trí
tôi là những cơn ác mộng Dioxin.
Mùa xuân năm 1971, vùng rừng núi phía tây tỉnh Kon
Tum, nơi đơn vị tôi đóng quân, liên tục bị rải chất độc màu da cam, mà người Mỹ
gọi là thuốc "khai quang". Tôi không hiểu hồi đó những người
lính Mỹ trên những chiếc máy bay C123 có biết về sự độc hại khủng khiếp của thứ
chất lỏng mà họ phun xuống không, hay chỉ những ông chủ của các hãng hóa chất Mỹ
mới biết? Còn chúng tôi thì đã tận mắt thấy sức hủy diệt của nó. Khi
ba chiếc C123 vừa chậm rãi bay qua, lòng rừng đang trong mùa khô đột nhiên mờ mịt
mưa, một thứ mưa mù đặc sệt và trắng nhợt. Mái rừng nhanh chóng tróc từng mảng
rộng, lở ra, rụng xuống như bị lột da. Lá, hoa, quả, và cả các cành con nữa
trút xuống như mưa nhưng không một tiếng xào xạc. Chẳng phải lá vàng, chẳng
phải lá xanh, lá to lá nhỏ tất cả đều là những xác chết thâm xịt và nhầu nhĩ
như bị vò. Cỏ dưới đáy rừng cũng rũ chết, ngả dẹp xuống và biến màu. Cả một thảm
rừng nguyên sinh rộng mênh mông bên bờ đông sông Sa Thầy bị biến thành đại ngàn
củi khô.
Trước đấy, cũng như sau đấy, dọc đường chiến tranh,
tôi đã trải qua những cảnh tượng không kém phần khốc liệt, tuy nhiên, ám sâu nhất
vào tâm trí tôi, vào các giấc ngủ thời bình của tôi, vẫn là cảnh tượng thiên
nhiên bị giết hại một cách rùng rợn trong những cái tháng Màu Da Cam ấy. Lần cuối
cùng trong chiến tranh tôi nhìn thấy người Mỹ là vào ngày gần chót của cuộc chiến.
Ngày hôm đó Sư đoàn 10 chúng tôi đã tấn công vào sâu trong Sài Gòn, đã áp
sát phi trường Tân Sơn Nhất. Và cũng giống như hôm 5-8-1964, những
"người Mỹ " tôi nhìn thấy hôm 29-4-1975 là những chiếc máy bay ném
bom Con Ma. Nhưng khác với trận oanh tạc mở đầu chiến tranh hồi năm 1964, lần này,
năm 1975, Con Ma quần đảo trên vùng trời Sài Gòn là để yểm trợ cho cuộc triệt
thoái toàn bộ nhân viên quân sự và ngoại giao của Mỹ ra khỏi nam Việt Nam bằng
trực thăng.
Người Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn lúc sáng sớm ngày
30-4, thì đến buổi trưa ngày hôm đó Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Quân
Giải phóng. Cuộc chiến tranh tàn khốc và kéo dài dường như không cùng tận, rốt
cuộc đã kết thúc. Sư đoàn 10 chúng tôi đóng quân ở Sài Gòn đến giữa tháng
5. Sau đó tôi trở lại tỉnh Kon Tum làm nhiệm vụ quy tập hài cốt liệt sĩ. Cuối
năm 1975 tôi giải ngũ. Khi đó tôi 23 tuổi. Và 23 năm sau, mùa hè năm 1998, tôi
lần đầu sang Mỹ, gặp lại những người Mỹ.
Tại cuộc hội thảo văn học ở Missoula, tôi đã lần đầu
được nghe bài thơ nổi tiếng The Arrow and the Song của nhà thơ Henry
Wadsworth Longfellow, qua bản tiếng Việt do nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đọc. Ý nghĩa
của bài thơ ấy thật là thích hợp, gần như là đồng điệu vậy, với tinh thần chung
của cuộc hội thảo: tình bạn, tình yêu cuộc sống và tình yêu hòa bình. Cũng
trong tinh thần đó, Giáo sư Philip West, Giám đốc Trung tâm Mansfield, đọc bài
thơ Chơi đền Khán Xuân của thi sĩ Hồ Xuân Hương. Bài thơ tuyệt diệu
và vô cùng cao sang này như một bản nhạc, cất lên bay bổng bầu không khí thanh
tĩnh, có phần man mác buồn của thành phố Missoula
Văn học thật sự là phép màu. Tôi không bao giờ quên
"những ngày thơ Montana", ngồi trong sảnh đường rộng lớn của trường đại
học, lắng nghe các tác giả đọc tác phẩm của mình. Thật là đẹp đẽ và cảm động
mà cũng thật là kỳ lạ: những nhà thơ bộ đội Việt Nam và những nhà thơ vốn là
lính chiến Hoa Kỳ, giờ đây bên nhau mạn đàm về văn học của hai đất nước, đọc
cho nhau nghe và bàn luận với nhau về những bài thơ của nhau. Mà không chỉ các
nhà văn nhà thơ, trong đông đảo cử tọa dự hội thảo cũng có rất nhiều người từng
là lính ở chiến trường Việt Nam. Họ từ nhiều nơi của bang Montana đã vượt đường
xa về Missoula nghe mạn đàm chuyện thơ văn Việt - Mỹ, và cũng là để gặp gỡ
"những người Việt Cộng", đối thủ của mình ngày xưa. Cảnh sát trưởng
Missoula, ông Pete Lawrenson, từ năm 1970 tới 1972 là sĩ quan cố vấn của lực lượng
Biệt động quân Sài Gòn đồn trú ở Kon Tum.
Khi biết tôi nguyên là lính Sư đoàn 10 bộ binh mà
thuở xưa đơn vị của ông đã bao lần đụng độ, Pete mừng như là được gặp lại một
người bạn đã nhiều năm xa cách. Trong hơn một tuần tôi ngụ ở Missoula, ông cảnh
sát trưởng chạy xe hơi đưa tôi đi thăm thành phố và cả thật xa tới nhiều vùng
khác nhau trong tiểu bang. Helena, Great Falls, Billings... Chúng tôi cũng đã tới
Khu tưởng niệm những binh sĩ người quê Missoula trận vong tại chiến trường Việt
Nam.Hôm đó, ngày Memorial Day đã qua gần một tuần, vẫn đang khá đông người viếng
thăm Khu tưởng niệm. Bên chân tấm bia lớn khắc tên những người lính đã tử trận,
tôi thấy ngoài những bông hoa còn có những kỷ vật mà người đến viếng khi ra về
đã để lại. So với Bức tường Chiến tranh Việt Nam tại Nghĩa trang
Arlington, tấm bia tưởng niệm ở Missoula nhỏ hơn nhiều, nhưng nỗi đau buồn, niềm
bi thương mà tấm bia này khơi dậy trong lòng những người đến viếng hẳn là chẳng
nhẹ hơn chút nào.
Tôi nghĩ ngay tới toán lính Mỹ mà tôi thấy lần cuối
cùng hồi tháng 4-1971. Đấy là một trung đội lính Không vận, tuy nhiên lần đó họ
hành quân bộ chứ không trên trực thăng. Họ đi hàng dọc và rất bình thản, ung
dung, không chút đề phòng. Họ không hề biết rằng chỉ cách ngay vài trăm thước
chúng tôi đang lặng lẽ theo dõi từng bước chân của họ và hỏa lực rất mạnh đang
mai phục đợi họ. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ, như là nhìn thấy họ trước mắt
mình. Đặc biệt là một người lính đeo máy PRC25. Tôi không hiểu vì sao, là
lính thông tin, nhưng anh ta không đi cạnh viên sĩ quan chỉ huy, mà lại đi tụt
xuống cuối cùng hàng quân, thậm chí đi tách ra một mình. Anh ta rất chểnh mảng,
không mặc áo giáp, không đội mũ sắt, không mang súng M16 hay M79, chỉ đeo máy
thông tin. Qua ống nhòm, tôi thấy anh ta vừa đi vừa nhai cái gì đó trong
miệng (có lẽ là kẹo gôm), và... vừa đi vừa chăm chú đá một cái vỏ lon trên mặt
đường. Chừng mười lăm phút sau tiếng súng rộ lên, toán lính Mỹ đã lọt vào ổ phục
kích.
Tôi không biết người lính trẻ tuổi đó còn sống hay
đã chết sau trận đánh hôm ấy, nhưng năm 1998, lần đầu qua Mỹ, được mời tới
thăm một số trường đại học và trung học, nhìn các chàng trai cô gái trong các
giảng đường và trên các sân trường, tôi nhìn thấy lại rõ ràng gương mặt anh ta,
người lính Mỹ hồi năm 71 ấy, và tôi có cảm giác như là nghe thấy cả những tiếng
"loong coong lanh canh" của cái vỏ lon Coca mà anh ta - như một
cậu học trò trên đường tan học từ trường trở về nhà với mẹ - đang vừa đi
tuần tra vừa tung tẩy đá nghịch.
* * *
Cuộc chiến tranh kết thúc cách nay đã hơn 40 năm, bởi
vậy những tấn thảm kịch mà nó gây ra cần phải được quên đi, hoặc không thể quên
thì cũng cần tránh đi, như người ta nói "gác lại quá khứ". Tôi
cũng như mọi người lính còn sống sau chiến tranh luôn tự nhủ và luôn nói với
nhau như vậy. Và như tôi thấy thì hầu hết các cựu chiến binh Việt Nam, cả những
người nguyên là đồng đội của tôi lẫn những người nguyên là kẻ địch của tôi,
theo dần năm tháng, tuổi tác, đã thực sự "gác lại quá khứ". Nhưng,
"quên đi" và "gác lại" không có nghĩa là quan niệm khác đi
về quá khứ. Chẳng hạn như tôi và ông bạn cựu binh Sư đoàn 23, nay là họa
sĩ, cũng có những góc nhìn và quan điểm không thể đồng nhất. Tuy nhiên, dù
không đồng quan điểm về toàn bộ mọi vấn đề nhưng chúng tôi cũng vẫn đồng ý được
với nhau rằng: Việc tôi và ông ấy cùng là người Việt Nam, cùng ngôn ngữ, cùng
văn hóa, cùng một lứa tuổi trẻ học trò trung học, chỉ khác là người thì được
cha mẹ sinh ra ở Sài Gòn, người thì được cha mẹ sinh ra ở Hà Nội, vậy mà đã dữ
dội chĩa súng vào nhau, quyết giết nhau. "Tôi không bắn anh thì anh bắn
tôi", đó là một trong những nỗi bất hạnh sâu sắc và đau đớn nhất mà người
Việt đã phải chịu đựng. Và chính nhờ không bao giờ quên nỗi đau đớn ấy của bản
thân mình và đất nước mình trong quá khứ chiến tranh, mà ngày này chúng tôi mới
có thể bỏ qua mọi bất đồng trong quan niệm về cuộc chiến đó để sống bên nhau,
hòa thuận, bạn hữu với nhau.