Merrill McPeak, khi lái máy
bay tiêm kích đánh phá đường Trường Sơn hàm thiếu tá. Sau Việt Nam ông ta tiếp
tục phục vụ trong quân ngũ lên tới hàm tướng, với chức Tham mưu trưởng Không
quân Mỹ. Trong “The Vietnam War”, ông kể
lại: bằng phương tiện quan sát hiện đại gắn trên máy bay, ông ta có thể nom rõ
từng vạt cây ven đường rừng phủ bụi; từng khúc đường ở suối lên ướt nước, chứng
tỏ có xe vận tải chở súng đạn của “Bắc Việt” vừa chạy qua. Rằng ông ta săn những
chiếc xe ấy như săn “những chú thỏ chạy dưới ánh đèn rọi”. Bắn nhiều rocket, thả
nhiều bom đến như vậy, nhưng không lực Mỹ không tài nào ngăn nổi sự vận chuyển
trên Trường Sơn…Cho đến nay, Merrill McPeek vẫn ức tới nghẹn cổ. Và viên tướng
nghỉ hưu ấy đi tới kết luận: Ông đã ủng hộ nhầm phe. Nếu có thể được, lý ra
ngày ấy ông phải chiến đấu cùng đội ngũ với các chiến sỹ can trường, quả cảm ở
bên phía “Bắc Việt”.
XEM 10 TẬP PHIM TÀI LIỆU MỸ “THE VIETNAM WAR”:
VÀI CẢM NHẬN CỦA MỘT NGƯỜI
TRONG CUỘC
TÔ HOÀNG
Khi nhìn lại cuộc chiến 10 năm chống
Mỹ (1964-1975), có một số người vô tình hoặc cố ý ngắt đoạn cuộc chiến tranh
này với cuộc chiến tranh chống Pháp (1946-1954); ngắt đoạn cả với thời kỳ “tìm
đường cứu nước” của các vị tiên liệt Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh.. Vì vậy, tính chất khách qua, “điểm son” đầu tiên nên
giành cho hai tác giả Ken Burns và Lynn Novick chính là ở chỗ họ đã nhìn ra được
mối quan hệ khắng khít giữa 2 cuộc chiến ấy.
“The Vietnam War” là phim của người Mỹ. Dĩ nhiên, theo
cách lý giải của họ, cuộc chiến 1964-1975 là làm theo “cây gậy” chỉ đạo của
Moskva và Bắc Kinh. Nhưng ngay ở tập 1 và tập 2, bằng hình ảnh, bằng lời dẫn giải,
thông điệp chuyển tới người xem là: chính lãnh tụ Hồ Chí Minh và những người cộng
sự của ông- chứ không phải ai khác, đã giành được chính quyền với một Bản Tuyên
ngôn Độc Lập và một ngọn cờ đỏ sao vàng. Khi Pháp muốn lập lại ách đô hộ như cũ
thì cũng chính lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng sự của ông dám tiến hành cuộc
kháng chiến với chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động năm châu, vang dội địa cầu”
- đòn đánh chủ yếu và quyết định, kết thúc chế độ thực dân ở Việt Nam. Vậy với
lịch sử, hai cuộc chiến tranh ấy là một sự liên tục, nhắm tới một mục tiêu: giải
phóng dân tộc. Ở tập 1 của “The Vietnam War”, Jonh Kennedy khi còn là nghị sỹ
cũng đã le lói hiểu ra điều này khi nói: “Những
người Cộng sản dưới quyền Hồ Chí Minh cho rằng họ đấu tranh cho độc lập còn
Pháp thì cố giữ lấy thuộc địa. Vì thế tôi tin rằng trước khi Mỹ có bất kỳ can dự
nào, người dân phải được hưởng quyền độc lập và phải ủng hộ cuộc đấu tranh đó”.
Những cựu quân Nhân Mỹ, trả lời phỏng vấn trước máy quay “The Vietnam War “cũng
gần như thống nhất một điều: dần dà nhận ra họ đang chống lại một dân tộc quyết
giành giữ độc lập cho xứ sở mình.
Người viết những dòng này, tuổi nhỏ theo cha mẹ lên
vùng kháng chiến của Bác Hồ. Trở về Hà Nội sau ngày Pháp rút quân, theo học cấp
1, cấp 2, cấp 3. Chiến tranh chống Mỹ nổ ra, nhập ngũ. Đã có mặt tại mặt trận Bắc
Quảng Trị-Khe Sanh vào 2 năm 1967-1968 ác liệt nhất; bước sang thời kỳ “phi Mỹ
hóa” thì chuyển vào chiến trường Tây Nguyên. Bằng vài dòng vắn gọn như vậy, tôi
vừa là người xem cũng lại là nhân chứng của những gì được miêu tả trong “ The
Vietnam War”.
Còn nhớ, ngay những năm 1955, 1956 chúng tôi đã cất tiếng
hát: “Miền Nam em dừa nhiều, miền Nam em
dứa nhiều..”, đã đọc thuộc lòng bài thơ “ Quê hương” của Giang Nam. Vào những
ngày Chủ nhật được nhà trường tổ chức cho đến thăm các bạn cùng trang lứa ở các
trường “Học sinh miền Nam”; thăm các đơn vị của “các chú bộ đội miền Nam tập kết”.
Đến cuối năm cấp 2 đã tháo bảng đen ghi lên dòng chữ phẫn nộ phản đối Luật
10/59, việc giết người bằng thuốc độc tại nhà tù Phú Lợi.để tham gia các cuộc
tuần hành trên đường phố… Tất cả những việc như vậy giúp chúng tôi hiểu rằng “đường cách mạng mới đi một nửa..”. Những
năm sau này, tham gia chiến đấu, chúng tôi biết vanh vách những tướng lĩnh chỉ
huy giỏi nhất trên chiến trường như Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Hoàng Minh Thảo,
Chu Huy Mân, Nguyễn An… đều là những trung đoàn trưởng, sư trưởng tài ba, quả cảm
của chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa. Còn những “Việt Cộng nằm vùng” tại miền
Trung hoặc Nam Bộ không ai khác, đều là những học trò xuất xuất của Bác Hồ như
các ông Lê Duẩn, Phạm Hùng, Võ Chí Công, Trần Văn Trà…
Với “The Vietnam War”, ngay từ vài ba tập đầu đã tựa
như cho người xem thấy: chính nghĩa thuộc bên nào? Nhân dân ở cả nông thôn lẫn
thành thị phía Nam ủng hộ ai? Vì sao biện pháp gom dân vào ấp chiến lược của Mỹ
và nhà cầm quyền Sài gòn thất bại? Nhiều
cựu chiến binh Mỹ kể lại một ấn tượng giống nhau: Nghe nói “Việt Cộng” ở nơi
này nơi kia, sục tới toàn là dân thường. Lính Mỹ thật khó phân biệt đâu là dân
đâu là lính “Việt Cộng”?, “Việt Cộng” tác chiến không dàn tuyến mà “xuất quỷ nhập
thần”…
Chúng ta hiểu, chỉ với một cuộc chiến tranh với mục
đích chính nghĩa; dựa vào dân, được dân đùm bọc, chở che mới tiến hành tác chiến
như vậy được. ” The Vietnam War” không muốn hay không thể gọi thành tên, nhưng
chúng ta nhận ngay ra hình thái của một cuộc Chiến tranh nhân dân quen thuộc.
Tiếp nối qua các tập sau, từ hồi ức
và suy ngẫm của các cựu chiến binh Mỹ tham chiến ở Việt Nam đến băng ghi âm của
các tướng 4, 5 sao của Mỹ, các cố vấn Mỹ, các chuyên viên cao cấp của Nhà Trắng,
hoặc Lầu Năm Góc khi luận bàn về tình hình chiến trường… thật thú vị khi chúng
ta thấy như sáng bừng lên trước mắt các phương châm chỉ đạo chiến lược, chiến
thuật; các bài bản tác chiến, những ứng biến để đập tan các âm mưu đối phương của
“Việt Cộng” và Hà Nội. Ra quân trong trận Ấp Bác là lần đầu đối mặt với chiến
thuật trực thăng thiết xa vận của Mỹ, với chiến công, Quân Giải phóng tìm tới được
phép giải con người là quyết định chiến thắng, chứ không phải là vũ khí, trang
bị kỹ thuật. Với chiến thắng Bình Giã là bài học có thể đánh tan các đơn vị chủ
lực lớn của đối phương. Sau các chiến thắng ở An khê, ở thung lũng Iadrăng, ở
Pleime..Quân Giải phóng rút ra ngay bài học bổ ích,: Phải bám thắt lưng địch mà
đánh mới giảm thiểu được độ sát thương của bom, pháo địch”…
Những phương châm chỉ đạo chiến lược,
những quyết sách lớn như “2 chân, 3 mũi”, tiến công Quân sự-Chính trị-Ngoại
giao phải hỗ trợ cho nhau; lấy yếu thắng mạnh; tự lực tự cường; đánh địch kết hợp
với địch vận, lấy nông thôn bao vây thành thị…từ cơ quan đầu não trên R., từ Hà
Nội- diễn tiến qua từng tập trong “ The Vietnam War” đều như là những minh chứng
rành rõ.
Nói về sức mạnh các phương tiện vật chất, kỹ thuật
Mỹ huy động vào cuộc chiến, phim “The Vietnam War” kể tới trực thăng, giang thuyền,
thiết xa, bom napal..Phim còn bỏ sót pháo bầy, máy bay B52 ném bom rải thảm, đạn
pháo 403 ly từ các pháo hạm của Hạm đội 7 ngoài biển bắn vào đất liền… Trong
phim nói, Trung Quốc và Liên Xô viện trợ cho Hà Nội và “Việt Cộng” những thứ vũ
khí hiện đại? Chúng ta biết ơn sự ủng hộ của những người một thời cùng phe
phái. Nhưng cũng phải nói lên những sự thật cho công bằng.Trung Quốc chỉ giúp
ta quần áo, tăng võng, lương khô, xe tải “Trường Xuân”.. tuyệt nhiên không chi
viện vũ khí. Liên Xô chuyển cho Việt nam máy bay Mig, tên lửa SAM chủ yếu để
phòng thủ và bảo vệ miền Bắc. Với bộ binh, hình như ông Cos, ông Bre không muốn
“nhẩy vào cuộc” dễ biến cuộc chiến Việt Nam thành chiến tranh thế giới nên chỉ
chi viện xe tăng T.54, pháo 130 ly..là những thứ họ đã sử dung trong thế chiến 2… Máy bộ đàm PC Nga
vẫn chạy bằng bình ác quy. Mỗi lần đi sạc điện cho ac quy là một lần đánh đổi bằng
xương máu anh em. Trước, sau Mậu thân 1968, trên các chiến trường xuất hiện tên
lửa Nga-Xô. Thực ra đấy là loại Cachiusa bắn giàn cũng được lính Xô Viết sử dụng trong cuộc chiến tranh 1941-1945. Chuyển
sang Việt Nam, bắn bằng dàn lập tức máy bay trang bị rada của Mỹ phát hiện
ngay. Chúng ta nhấc quả đạn ra khỏi dàn, vác lên vai, vào trận địa, đắp ụ đất
đo kỹ góc nivo và phóng đạn đi...
Đặt lên bàn cân những điều kiện bảo
đảm chiến tranh quả là quá nghiêng lệch, nếu tổn thất về phía ta có lớn hơn
cũng là điều dễ hiểu. Khi tướng Wesmolen báo cáo về Mỹ tỷ lệ tốn thất sinh mạng
ta 10, Mỹ 1 người dân Mỹ gào lên: Họ chỉ cần biết tới số 1! Phía mình, biết bao
nhiêu giọt nước mắt của các cấp chỉ huy chiến trường đã rơi trên các trang tổng
kết trận đánh, hoặc sau này trên những trang hồi ký, nhưng tất cả đau khổ, xót
sa ấy được an ủi bởi cuộc chiến đấu dữ dội, nhiều mất mát kia đã đạt tới mục đích cuối cùng: Độc lập
và Thống nhất !
Ghi lại mấy đoạn từ “The Vietnam War”:
Thiếu tá Mỹ Charles A. Beckwith, “người hùng” thời chiến
tranh Triều Tiên sang Việt Nam được đồng đội đặt cho biệt danh “Charles xông
pha”. Nhà báo Mỹ Joe Galloway đi theo ông ta tham dự các trận Ia Đrăng, Pleime, sau trận đánh nhà báo có cuộc phỏng vấn
nhanh:
J.
Galoway: Quân Việt Cộng mà ông đánh ở đây là loại lính thế nào?
Charles
A. Beckwith: Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được 200 người lính như họ.
J.Galoway:
Tức là những người lính Việt Cộng?
Charles
A. Beckwith: Đúng đấy! Họ là những người lính giỏi nhất mà tôi từng thấy.Họ tận
tâm và thuộc loại cừ khôi. Tôi chưa từng thấy lính nào giỏi như họ.
Merrill McPeak, khi lái máy bay tiêm
kích đánh phá đường Trường Sơn hàm thiếu tá. Sau Việt Nam ông ta tiếp tục phục
vụ trong quân ngũ lên tới hàm tướng, với chức Tham mưu trưởng Không quân Mỹ. Trong “The Vietnam War”, ông kể lại: bằng phương tiện
quan sát hiện đại gắn trên máy bay, ông ta có thể nom rõ từng vạt cây ven đường
rừng phủ bụi; từng khúc đường ở suối lên ướt nước, chứng tỏ có xe vận tải chở
súng đạn của “Bắc Việt” vừa chạy qua. Rằng ông ta săn những chiếc xe ấy như săn
“những chú thỏ chạy dưới ánh đèn rọi”. Bắn nhiều rocket, thả nhiều bom đến như
vậy, nhưng không lực Mỹ không tài nào ngăn nổi sự vận chuyển trên Trường Sơn…Cho
đến nay, Merrill McPeek vẫn ức tới nghẹn cổ. Và viên tướng nghỉ hưu ấy đi tới kết
luận: Ông đã ủng hộ nhầm phe. Nếu có thể được, lý ra ngày ấy ông phải chiến đấu
cùng đội ngũ với các chiến sỹ can trường, quả cảm ở bên phía “Bắc Việt”.