Trần Mạnh Hảo viết về Thanh Tùng: “Hải Phòng hình
như là niềm thơ riêng của Thanh Tùng. Nắng gió Hải Phòng, mùi Hải Phòng len lỏi
vào tận cùng chữ nghĩa của ông. Trước Thanh Tùng, có hai ông quê Nam Định khác
là Văn Cao và Nguyên Hồng đã Hải Phòng hóa tâm hồn mình thành những kiệt tác: “Trường
ca cửa biển”- Văn Cao và “Bỉ vỏ” tiểu thuyết hay nhất thời tiền chiến của
Nguyên Hồng viết về Hải Phòng). Khi định cư ở Sài Gòn, thơ Thanh Tùng vẫn còn
thở dưỡng khi cửa biển, uống cạn những ngõ phố hun hút như một chai rượu không
đáy Hải Phòng. Ngay cả nỗi cô đơn của Thanh Tùng cũng là nỗi cô đơn rất ngáo ngổ
Hải Phòng…”
THANH TÙNG – XANH MÃI THỜI HOA ĐỎ
TRẦN MẠNH HẢO
Ngót 40 năm làm thơ, đầu xuân 2001 này, lần đầu tiên
Thanh Tùng mới có tập thơ trình làng : “ Thời hoa đỏ” do NXB Văn học ấn hành.
Sinh năm 1935, vị chi nhà thơ đã 66 tuổi mà dáng dấp bên ngoài còn bùng nổ như
thể cả cửa biển Hải Phòng chợt đứng lên biến thành người đàn ông cường tráng.
Thanh Tùng được trời ban cho một bản năng sống phi
thường, một trái tim đập nhịp búa tạ, một sức khỏe có thể vật được cả kiến lẫn
voi. Với thơ, sự mê sảng tột độ ấy vừa là lợi thế, vừa là nỗi phải dè chừng. Tưởng
ông chỉ sinh ra để yêu như vỡ đê, uống rượu như nước và làm thơ như lên đồng.
Thanh Tùng, con nhà địa chủ phản động ( ghi chú của
TMH: đoạn này bị cắt khi in báo) nên sau năm 1954, anh bị cấm đi học, phải làm
hàng chục nghề kiếm sống như phu khuân vác, thợ quai búa, áp tải bảo vệ hàng
hóa, võ sĩ chống trộm cướp, đọc thơ ứng tác trong quán rượu hay biên tập báo
chí…
Ba thứ ông yêu: đàn bà, rượu và thơ; nhưng cả ba món
này đã hành hạ ông vô cùng tận. Ít ai có thể viết được câu thơ về rượu hay như
Thanh Tùng :
“Không có tôi rượu sẽ bơ vơ”
Ngay cả trong mắt của những em gái quê hương, Thanh
Tùng cũng đọc lên được linh hồn men rượu xưa :
“Những em gái thập thò sau khung cửa
Ánh mắt như màu rượu đã lâu ngày”
Có lẽ, khi đọc tập thơ này của Thanh Tùng, ta đôi
khi cũng cần phải có “Ánh mắt như màu rượu đã lâu ngày” chăng ?
Thơ sống được nhờ câu, sau đó mới đến bài, trừ bài
thơ có tứ độc đáo. Ngay cả những tập thơ được xếp hạng nhất Việt Nam, thì không
hẳn bài nào cũng hay, câu nào cũng tuyệt.
Thanh Tùng, thi sĩ của nỗi thất tình, đã viết được
những câu thơ hay kinh ngạc :
“Biển vật vã như đang đau đớn
Giống ngày nào em bỏ tôi
Thế ai bỏ biển đi mà biển vậy ?”
Ngày ông bị người tình vĩnh cửu bỏ lại bơ vơ giữa thế
gian này chính là ngày thi sĩ. Câu thơ này của Thanh Tùng hay đến phải bái phục
ông :
“Mỗi chiếc hôn cũng làm biển động”
Ông làm ta giật thót mình khi viết :
“Tôi sục tay vào túi thủng
Những tia nắng cuối cùng”
Kẻ đi tìm chính mình chợt sục tay vào túi chỉ thấy
khoảng không với tia nắng cuối tưởng chẳng ăn nhập gì với nhau ; nhưng khi
chúng được huy động vào để diễn tả cảm giác hụt hẫng, đáy vực, cạn đường, chợt
tạo nên một rung động thơ rất mạnh, như hai cực âm dương làm cho dây bóng đèn
điện phát sáng. Xin nghe thêm hai câu thơ vào loại thiên tài của Thanh Tùng :
“Sương mặt sông chập chờn đổ vỡ
Khóc đầm đìa trên những cột buồm cao”
Chao ôi, có một thứ “sương chập chờn đổ vỡ” trên mặt
sông trang giấy, quả là thứ sương riêng của Thanh Tùng: sương thủy tinh chợt đầm
đìa ứa lệ cột buồm cao. Huy Cận từng rất hay khi viết: “mưa xuân tươi tốt cả
cây buồm”. Nhưng Thanh Tùng không chỉ hay mà còn lạ khi ông dựng lên nhấp nhô
trong thơ mình những cột buồm khóc vỡ lệ thủy tinh sương.
Hải Phòng hình như là niềm thơ riêng của Thanh Tùng.
Nắng gió Hải Phòng, mùi Hải Phòng len lỏi vào tận cùng chữ nghĩa của ông. Trước
Thanh Tùng, có hai ông quê Nam Định khác là Văn Cao và Nguyên Hồng đã Hải Phòng
hóa tâm hồn mình thành những kiệt tác: “Trường ca cửa biển”- Văn Cao và “ Bỉ vỏ”
tiểu thuyết hay nhất thời tiền chiến của Nguyên Hồng viết về Hải Phòng).
Khi định cư ở Sài Gòn, thơ Thanh Tùng vẫn còn thở dưỡng
khi cửa biển, uống cạn những ngõ phố hun hút như một chai rượu không đáy Hải
Phòng.Ngay cả nỗi cô đơn của Thanh Tùng cũng là nỗi cô đơn rất ngáo ngổ Hải
Phòng :
“Ai bỏ tôi đi thế này ?
Tôi bỏ ai đi thế này ?
Kẻ nào đã nuốt hết gió ?
Cho buồm chẳng thể xa khơi!”
Giọt nước mắt nhớ quê hương ướt má Sài Gòn vẫn chỉ
là những dây xích neo con tàu vào cảng thơ Thanh Tùng :
“Những giọt nước mắt móc vào nhau thành sợi
xích
Ghì con về miền hoang lạnh xa xôi”
Xa Hải Phòng, Thanh Tùng mượn gió mà rơi lệ trong
câu thơ làm tôi nổi da gà vì lạ lùng cảm thương khôn xiết :
“Mai tôi đi rồi
Tôi có khóc đâu mà gió ướt ?”
Thanh Tùng ra đi, để tuổi thơ mình trong tuổi thơ
hai con, bởi cái không thể mang đi nổi là tuổi thơ của chúng :
“Chúng ta đã chuyển đi tất cả
Chỉ tuổi thơ không làm sao chuyển nổi”
Tuổi thơ ấy, chính là quê hương thơ ông – người đã
viết những bài thơ, câu thơ hay nhất về Hải Phòng. Tận cùng phương Nam Thanh
Tùng vẫn thả những câu thơ hay về phố biển, những câu thơ ông ném lên trời
thành những sợi – dây – chim :
“Những đàn hải âu
Như bao khúc dây mềm
Gió ném lên trời xanh”
Thanh Tùng còn bạt ngàn câu thơ hay nằm án binh bất
động trong các góc tối chữ, chỉ xin trích ra một số câu rất thi sĩ, dấu hiệu của
tài năng lớn thi ca miễn bình vì khuôn khổ của bài báo không cho phép :
“Ta lại về bờ gió ấy thổi sang nhau
Cỏ vẫn vẽ những đường dại dột”
“Một mặt lá mùa hè còn níu ở
Mặt kia thoắt đã thu đầy”
“Đã gần lắm tưởng giơ tay là với được
Nỗi bàng hoàng rơi xuống tự trời cao”
“Nắng nghẹn mình đầu ngõ
Qủa đeo buồn lưng cây”
“Những vòm liễu nhúng chiều vào đáy nước”
“Em đạp lên tất cả
Rồi ngã vào anh theo cách ngã của mùa thu”
“Gặp về không ngủ nổi
Hóa ra tình cũ rót vào nhau”
“Thoát ra chạy thi cùng trăm ngả”
“Không còn ánh đêm cho mình nương tựa
Không còn ánh ngày cho mình gặp gỡ”
….
Thanh Tùng còn có một số bài thơ toàn bích trong tập
này. Ví như bài “ Đôi nạng” hay vì tứ thơ khái quát, tính tư tưởng cao mà rất cảm
động :
“Ngày khai trường
Cha mua cho con đủ thứ
Nào sách bút, nào áo quần
Lại cả đồ chơi nữa
Nhưng cha ơi
Cha quên sắm cho con đôi nạng mới
Vì hai năm từ khi con bị bom
Chiếc nạng cũ chẳng chịu lớn cùng con, cha ạ”
Bài “Thất tình” của Thanh Tùng cũng là bài thơ hay
toàn bích, có thể chưa có bài thơ thất tình nào sánh được bài thơ này của ông :
“Em để lại trong tim tôi một mũi dao
Thỉnh thoảng lại nhấn sâu thêm một chút
Tôi mang nó suốt đời còn em thì không biết
Những mùa thu ướt đẫm vẫn đi về
Bây giờ mọi thứ thuốc đều vô hiệu
Tôi chữa bằng rượu thôi
Hết rượu rồi tôi uống cả mùa thu
Cả những chiều đông lướt thướt
Xong, lại tự nhấn sâu thêm nữa
Mũi dao ngày xưa
Nhưng có sao khi trái tim tôi đã thành bình rượu
Cả mũi dao cũng đã say mềm”
Thanh Tùng chừng chết đuối trong mùa thu đẫm rượu.
Xuyên qua mùa thu trong vắt Nguyễn Khuyến, mùa thu chết của Apollinaire, Thanh
Tùng là cả mùa thu nửa vàng nửa xanh, nửa sống nửa chết, nửa câm nín, nửa thét
gào, ngân giọng thơ cuồng nhiệt đến nức nở, đến đứt hơi, mê sảng nơi bài thơ
“Mùa thu”, xin trích :
“tôi rỗng ra
như chiếc chai đêm qua còn lăn lóc trên bàn
tôi van đấy mảnh giậu nghiêng trước cửa
đừng sắc thế
cứ xước lên mình của gió
tôi van đấy mắt em đừng qua nữa
cứ giày vò tôi cũ những mùa xưa
tôi rối rít những đường lá rụng
rồi có ai ở tận đâu xa
thong thả thít từng nấc một
đến lịm dần trong men lá thu”
Những bài thơ : “Chuyển mùa”, “Em và thu”, “Bây giờ”,
“Mười lăm năm”…là những bài hay trọn vẹn.
Thanh Tùng, nhà thơ tài năng bậc nhất của Hải Phòng,
cùng với Thi Hoàng, sẽ là hai tên đường của thành phố biển khi hai ông trăm tuổi.
“Thời hoa đỏ” là một tập thơ hay hiếm có ! Tuy nhiên
nó đã bị ông Hữu Thỉnh dìm và không cho tác phẩm này giải thưởng của Hội Nhà
Văn trong năm 2002 vì sợ Thanh Tùng làm át thơ ông chủ tịch hội ( Câu văn này mới
viết thêm vào khi tác giả đánh máy lại bài viết đã in báo Văn Nghệ 16 năm trước).
Thơ Thanh Tùng vẫn rừng rực như đuốc phượng vĩ cháy
thành phố biển mùa hạ.
Tôi xin kết thúc bài viết này bằng câu thơ hay vào
loại thiên tài của Thanh Tùng :
“Nối bao gió thu cho tôi tới được em”
Thanh Tùng đang có trong tay ngọn gió thu ấy, đã
đang và sẽ nối với tâm hồn mọi người bằng dưỡng khi thi ca sẽ đi vào vĩnh cửu...
Sài
Gòn ngày 14-11-2001