Tôi nhớ lúc còn nhỏ, những người lớn tuổi như mẹ tôi, đi chùa
thắp nhang lạy Phật xong bao giờ cũng đứng bàn thờ vong có mấy chữ
“Hoa khai Cực Lạc” xá ba xá. Tôi đứng bên mẹ, nhìn lên cả trăm ảnh
vong linh: đàn bà, đàn ông, có người rất trẻ và có cả ảnh trẻ con…
và có cả hình của mấy tay mà lúc còn sống dân làng chẳng ai ưa… tôi
sợ lắm. Mẹ không giải thích, có lẽ ngày ấy tôi còn quá nhỏ để
nghe. Cũng có thể mẹ làm theo thói quen tập hoán truyền thống của
ông bà xưa, mẹ cứ noi theo đó mà làm cũng không hiểu lắm. Mãi về sau
tôi mới biết cử chỉ của mẹ cũng như hành vi của nhiều người lớn
tuổi khác. Người Việt có truyền thống nhân bản bao dung không phân
biệt mọi hương hồn đã khuất (nghĩa tử là nghĩa tận) nó dung hòa
với đạo Phật.
HOA KHAI CỰC LẠC THÁNG CÔ HỒN
NGÔ KHẮC TÀI
I.
Rằm
tháng bảy là một ngày rằm đặc biệt. Ngoài việc báo hiếu song thân,
trong thời riết mưa gió sụt sùi, lòng người còn mở thông ra nhiều
cõi bên ngoài, nhớ đến bao người. Tục cúng cô hồn lang thang xó chợ
đầu đường mang đầy tính vị tha nhân bản. Hầu như sự vĩnh hằng, thời
gian hữu hạn kéo đi bao nhiêu đổi thay. Và cái chết là một trong
những chủ đề lớn của các nhà thơ. Không phải tự nhiên mà mỗi năm
đến rằm tháng bảy tôi luôn nhớ đến “ Văn
tế thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du.
Cũng có kẻ chìm sông, lạc suối;
Cũng có những sẩy cội, sa lầy;
Có ngừơi leo giếng đứt dây;
Người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành.
Thế là:
Khi sau đông đúc vui cười;
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương?
…
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước;
Biết lấy ai bát nước chén nhang!
Và
nhớ đến Tản Đà với “ Thăm mả cũ bên đường”
Hay là thuở trước kẻ văn chương;
Chen hội công danh lỡ lạc đường;
Tài cao phận thấp chí khí uất;
Giang hồ mê chơi, quên quê hương!
Hay là thưở trước khách hồng nhan;
Sắc sảo không ngoan trời đánh ghen;
Phong trần xui gặp bước lưu lạc;
Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn!
Đây là
những bài thơ hay của thơ ca cổ điển Việt Nam nhưng theo tôi nó mang
tính nhân loại chung chung đứng bên ngoài mà nhìn thông cảm với sự
vật hơn là đi sâu vào tâm hồn người vì thế tôi thích bài thơ của Hòa
Thượng Tế Điên trong một cuốn sách xưa tôi quên nhưng lại nhớ nó vì
thấy nó thấm sâu vào lòng mình. Bài thơ mà đọc cho người hấp hối
nghe họ sẽ ra đi nhẹ nhàng và siêu thăng tịnh độ
Sáu mươi năm bừa bãi
Gió đông vờn với gió tây
Đến nay thu nhặt quay về
Mây xưa nước liền trời biết
Tôi
không biết Hòa Thượng Tế Điên hành tung hư thật ra sao, phim ảnh lại hư
cấu Hòa Thượng thành nhân vật huyền thoại tu hành mà ngổ ngáo trêu
chọc thiên hạ lại còn uống rượu ăn thịt chó. Thực hư khó phân biệt
nhưng khi đọc lên mấy câu thơ của ngài cho thấy đây là người đắc đạo.
Người ta lập tức trực nhận được ở bài thơ những cái thấy khác như không, như vô, tỉnh thức mở cánh cửa thong dong một cõi đi về, thấy
cuối tầm nhìn trời nước gặp nhau!.
II.
Nhắm
mắt, qua đời, chết ngắc, chết ngủm, tử vong…người đời rất phong phú
từ ngữ để diễn tả điều đáng sợ không ai tránh khỏi. Tôi lại thích
những từ như đi, quy, cố hương, quy tân gia… tuy có
vẻ như đùa cợt nhưng lại gần với chân lý. Tuy nhiên, thích nhất vẫn
là cụm từ nhà Phật “Hoa khai Cực
Lạc”. Để chỉ cái chết sau lại nói là hoa khai? Chỉ vì chết không
phải là trạng thái tĩnh, mà đó
là mọt trạng thái động. Chết
thân cũ để thay thân mới. Sự chết chỉ là một phen trong vô số lần
chết. Sự sanh cũng vậy, cũng là một lần trong vô số kiếp sanh. Hoàn
toàn phù hợp với quan niệm khoa học – vật chất biến đổi từ trạng
thái này sang trạng thái khác.
Tôi
nhớ lúc còn nhỏ, những người lớn tuổi như mẹ tôi, đi chùa thắp nhang
lạy Phật xong bao giờ cũng đứng bàn thờ vong có mấy chữ “Hoa khai
Cực Lạc” xá ba xá. Tôi đứng bên mẹ, nhìn lên cả trăm ảnh vong linh:
đàn bà, đàn ông, có người rất trẻ và có cả ảnh trẻ con… và có cả
hình của mấy tay mà lúc còn sống dân làng chẳng ai ưa… tôi sợ lắm.
Mẹ không giải thích, có lẽ ngày ấy tôi còn quá nhỏ để nghe. Cũng
có thể mẹ làm theo thói quen tập hoán truyền thống của ông bà xưa,
mẹ cứ noi theo đó mà làm cũng không hiểu lắm. Mãi về sau tôi mới
biết cử chỉ của mẹ cũng như hành vi của nhiều người lớn tuổi khác.
Người Việt có truyền thống nhân bản bao dung không phân biệt mọi hương
hồn đã khuất (nghĩa tử là nghĩa tận) nó dung hòa với đạo Phật.
Rằm thắng bảy cúng hết các cõi, cúng cô hồn cúng chiến sĩ trận
vong, kể cả chuyện lập bàn thờ cho kẻ thù. Tôi nhớ ngoài miền Bắc
có đền thờ Phục Ba tướng quân (Mã Viện) ngay cả những ngôi mả lâu
đời mấy trăm năm vẫn có kẻ đến thắp nhang cho đã nói lên điều này.
Ngày nay đi chùa thấy tục xưa như may một. Trừ những người thân đi
chùa mới đến trước bàn vong để tưởng niệm cha mẹ, bà con, còn những
người không thân chỉ lướt nhìn hờ hững. Có lẽ người đời nay thấm tư
tưởng nhị nguyên của phương Tây, phân biệt rạch ròi đen trắng, tả hữu
ta người. Ghét ai thấy dấu chân thấy mồ mả của người ngứa ngáy muốn
bứng đi cho khuất con mắt. Ở đây như quên điều gì đó thay vì cởi mở
lại thắt nút thêm cột cuộc sống lại. Để rồi nó như là một trong
những nguyên nhân tiếp tục những cuộc khủng hoảng đổ vỡ không hóa
giải được mâu thuẩn xã hội. Khi nói không tâm linh tôi thấy người nói
nghèo nàn làm sao. Dường như ở giữa không tâm linh với tâm linh có một
vùng giao thoa tập mờ. Những câu hỏi của đời sống từ đây mà ra chính
từ vùng này đã khơi dậy những phát minh,
sáng kiến khoa học.
Từ
cái cảm giác sợ sệt trước bàn vong không dám nhìn, dần dần tôi thơ
thẩn đứng nhìn các vị lâu hơn. Nhìn những tấm ảnh đàn ông, đàn bà,
người già, người trẻ trên bàn, không ai giống ai, không có người thứ
hai lặp lại, nhưng tất cả đều như nói với tôi một điều: cuộc sống
đáng quý biết bao nhiêu! Một lúc nào đó rời xa cuộc sống này, tôi
không biết gì về cõi xa kia…nhưng lại trực nhận ra một điều đáng sợ
là sau cái chết mọi người đều bình đẳng, chẳng khác gì nhau, trừ ra
những nghiệp quả đã tạo. Chết không phải là sự chấm dứt, vì máu
của cha mẹ đã truyền qua máu cho con, vì còn có nghiệp quả. Trong
nghiệp quả lại có biệt nghiệp, cộng nghiệp, tức là những điều mình
đã tự tạo ra hoặc cùng với người khác tạo ra… rồi còn có sự tiếp
nối của những ngừơi thân thuộc, con cháu, dòng họ…phải chăng chết
cũng chỉ là một điểm khởi đầu? Người sống nên nhận ra điều này không
làm nhục người đã chết nhất là làm nhục cha mẹ vì máu huyết của
họ đã lưu lại tạo ra người (họ vẫn luôn sống trong thân thể của con)Cuối
cùng, khi hướng về nơi cõi xa kia, sự thức tỉnh lại chiếu soi cho tâm
thức ta ngay trên mặt đất này. Phải chăng đó chính là ý nghĩa diệu
ảo của mùa Vu Lan, mùa báo hiếu?