Hàng ngàn năm trôi qua con người vẫn nhớ vào một đêm rằm
giữa khuya trăng sáng phủ trùng Thái tử Tất Đạt Đa nhìn kinh thành Ca Tỳ La Vệ
dưới ánh trăng mơ màng, nhìn mặt vợ con lần cuối cùng. Thái tử đánh thức Sa Nặc
người giữ ngựa Kiền Trắc thức dậy. Sau đó cả ba Tất Đạt Đa, Sa Nặc và ngựa Kiền
Trắc lặng lẽ ra đi, đi mãi đến bờ sông Anoma. Câu chuyện đến đây nhưng còn chi
tiết ít người biết. Mấy năm sau thường lang thang trở lại với sông Anoma nhìn
về phía bên kia bờ sông nghĩ ngợi trầm ngâm. Bên kia sông là đồi núi chập trùng
rừng xanh thẳm thưa dấu chân người. Nhưng đâu là bến giác bờ mê? Tại sao cùng
một chuyến đi ba người, Sa Nặc lại ở lại. Thái tử tìm gì lại đi qua sông. Và
cuộc hành trình còn có một bóng dáng nhỏ nhoi bị khuất lấp sau bóng người đi đó
là chú ngựa Kiền Trắc. Chú biết gì, tìm gì…?
HÀNH TRÌNH KIỀN TRẮC
NGÔ KHẮC TÀI
Kiền Trắc là chú ngựa bạch của hoàng thân Đề-Bà-Đạt-Đa, anh
em bà con với Thái Tử Tất Đạt Đa. Kiền Trắc vừa sinh ra đã đứng dậy trên bốn
chân loạng choạng, chưa vững nhưng đuôi đã ve vẩy. Sau vài cái vẩy đuôi chú
đứng thẳng lên và cất tiếng hí. Tiếng hí non nớt đã biểu lộ một điều gì đó
thuộc bản tính của chú. Voi, gấu, ngựa, khỉ, chim ở các chuồng xung quanh để ý
hướng về chú… bằng những ánh mắt buồn bả- thật là tội nghiệp, mày đã sinh lầm
chỗ.
Ngài Đề-Bà-Đạt-Đa là một kẻ ích kỷ, luôn bị cái hữu hạn ám
ảnh, cung vàng điện ngọc rồi đây sẽ mất tất cả rồi sẽ tới lượt đối diện với cái
chết. Đề-Bà-Đạt-Đa tìm đến vĩnh cửu, muốn cho ngừơi ta không quên mình bằng sự
thống trị, áp đặt quyền lực mọi người, các con vật trong cung ăn gạo thô, uống
nước đục nhưng lại phục vụ bất cứ lúc nào, bất cứ hoàn cảnh nào. Theo hoàng
thân như vậy mới thể hiện tấm lòng với mình. Các con vật im lặng khép nép mỗi
khi hoàng thân đến gần, vì đã quen hoàng thân cho phép con nào, con ấy mới dám
cử động. Ngay cả chim đang hót cũng im tiếng. Hoàng thân Đề-Bà-Đạt-Đa tỏ ra
thích thú khi thấy mình đạt tới quyền lực tuyệt đối, ban phát cuộc sống, ban
phát vui buồn cho tất cả. Hoàng thân vui không biết cả cung điện mình ảm đạm, ủ
rủ, trở thành một kẻ ác mà hoàng thân vẫn không hay. Kiền Trắc hồn nhiên như
thách thức quyền lực tuyệt đối mà hoàng thân muốn áp đặt. Do đó hoàng thân lấy
làm ngạc nhiên, tức giận, khi thấy tất cả gặp mình tỏ ra run sợ khép nép, riêng
chú ngựa Kiền Trắc gặp ngài lại vẩy đuôi. Không thể chịu nổi, Kiền Trắc ăn rất
ít mà lại chạy rất xa dẻo dai, vẫn vẩy đuôi như vẫn tỏ ra không mệt mỏi. Sự tức
giận làm người mất ngủ, dẫn tới điên loạn, hoàng thân ra sức vung roi đánh đập
Kiền Trắc vào be sườn non, vào bất cứ chổ nào trên mình Kiền Trắc. Quên mất
Kiền Trắc là giống ngựa quý từ Phương Đông xa xôi đem cống cho hoàng cung vua
Tịnh Phạn. Mặc dù bị hành hạ nhưng Kiền Trắc còn sức còn ve vẩy đuôi như tỏ ra
bất chấp, như trêu. Gió mang theo điều buồn, điều vui, điều lành, điều xấu, hay
đi khắp hư không. Hư không không can thiệp vào bất cứ số phận nhưng mọi
cái đều có bóng dáng hư không để rồi cái
nào bén phải lụt, cái nào méo
phải tròn lên.
Cọp phải ít
hơn nai trên
rừng. Vì vậy cuộc sống luôn
tồn tại , khó
cắt nghĩa được
thế nào là số phận.
Thái Tử Tất-Đạt-Đa tìm đến Kiền Trắc. Quả nhiên đúng như lời
đồn, chú ngựa bị bỏ đói ốm nhom, thương tích đầy người gặp vị Thái Tử trẻ tuổi
không tỏ ra buồn rầu, vô tư ve vẩy đuôi. Thái Tử xin chú về. Hoàng thân trong
cơn giận, muốn cho chú đi cho khuất mắt để thiết lập lại quyền hành tuyệt đối.
Vô tình cơ duyên, vật tìm được chủ và chủ cũng tìm được vật. Thế là Kiền Trắc
có nơi ở mới.
Trong cung điện hoàng thân Đề-Bà-Đạt-Đa u ám bao nhiêu, ở chỗ
Thái Tử Tất-Đạt-Đa sáng sủa tốt đẹp bao nhiêu. Sa Nặc là một nài ngựa tốt bụng
hết lòng chăm sóc các con vật. Ngựa được ăn loại kê tốt nhất, sàng sẩy sạch sẽ,
lúa mạch non ngậm sữa đòng đòng ướt đẩm sương đêm. Lũ vật được thường xuyên tắm
mát. Mỗi lần Kiền Trắc ăn, Sa Nặc đứng một bên rờ rẫm thì thầm. Được ăn ngon,
được thương yêu chú ngựa phục hồi sức khoẻ nhanh chóng, bộ lông trắng bóng mượt
như được xoa dầu. Cho dù bị hoàng thân bỏ đói, ở chổ Tất Sỷ Đạt Ta được ăn no,
Kiền Trắc vẫn một mực nhân cách nhẹ nhàng bốn vó tung bay trên đường.
Đừng lấy làm ngạc nhiên, Kiền Trắc không tạo ra con đường.
Con đừơng có sẳn từ lúc Kiền Trắc mới
sinh ra. Kiền Trắc cứ thong dong bước đi chở theo người, chở theo hành trang.
Trên lưng , tất cả những gì gọi là cuộc đời.
Tuy nhiên Thái Tử Tất-Đạt-Đa không để ngựa Kiền Trắc phải
vất vả. Cách một vài ngày Sa Nặc thắng bộ yên cương cho Kiền Trắc. Thái Tử cởi
ngựa dạo chơi trong rừng, một vòng qua xóm làng, qua hoàng thành, mặc dù Kiền
Trắc luôn vẩy đuôi, vị Thái Tử trẻ tuổi lắng nghe chú thở phì phò có vẻ mệt
mỏi. Bao giờ Thái Tử cũng cho ngựa dừng lại nghỉ ngơi và thong dong bước kiệu
trở về.
Tưởng như mọi
cái ở hoàng
cung vua Tịnh Phạn
không hề thay
đổi. Thời gian yên trôi ngày
nối ngày trong vườn Thương
Uyển đã bao mùa lá. Một buổi
chiều, theo thường lệ Sa Nặc mang
thức ăn đến chuồng ngựa. Riêng hôm nay Kiền Trắc nhận được phần lúa mạch nhiều
hơn ngày thường. Và khi
Kiền Trắc cúi đầu nhai lúa,
Sa Nặc đưa tay vuốt ve
Kiền Trắc rồi thì thầm “Nè
ăn cho no đi. Chưa bao giờ mày đi xa,
nhưng đêm nay ông
chủ nhân hậu sẽ
đưa mình đi”. Kiền Trắc
cứ ngỡ là những
lời thì thầm mỗi
chiều thường lệ
của Sa Nặc.
Không ngờ đó
là những lời buồn bả sao… Dường như sắp có điều gì sắp xảy ra. “Mà đi
đâu, mày ơi. Chủ nhân bỏ vợ con, cung vàng điện ngọc dễ dàng như vậy sao! Ôi mày
ơi, đây là một con người có tấm lòng cao cả, không có một người thứ hai. Nhưng
mà mày ơi, mày có đồng ý với tao. Muôn loài không riêng gì con người, không một
ai tránh khỏi được tuổi trẻ, già nua, bệnh tật rồi chết. Chết là thất bại cuối
cùng là điểm phải đến. Không phải do ta muốn. Mày có đồng ý với tao. Thương ông
chủ tao quá, nhưng mà tao không thể nói được trước ý chí của ông chủ kiên định
như kim cương”.
Sa Nặc vừa nói gì, tiếp tục giọng nói thì thầm trầm buồn.
Kiền Trắc nhớ lại đêm nay là đêm rằm. Buổi chiều ngày rằm phố xá ngoài hoàng
thành đông người ngừơi dạo chơi, người buôn bán lẫn người ăn xin, mấy ông già
đi không nổi nằm dưới đất van xin. Và có một đám ma nhà nghèo không trống kèn.
Sa Nặc ngồi một ngựa, Tất-Đạt-Đa với Kiền Trắc. Cứ gặp một hình ảnh, Thái Tử
cho Kiền Trắc dừng lại và kêu lên “Ôi cuộc đời, sao buồn vậy người ơi”. Tất Đạt
Ta và Sa Nặc xuống ngựa đến bên đám ma.
Hai người hỏi han mọi ngừơi và cả hai trao đổi thật lâu những gì Kiền Trắc
không biết.
Giờ đây Sa Nặc thì thầm bên tai, Kiền Trắc vẩy đuôi. Ơi mày
ơi, mày nghe tao nói, mày hiểu lời tao. Sa Nặc kêu lên. Kiền Trắc muốn nói là
tôi không biết đâu nhưng không nói được, chỉ lấy đuôi đưa qua đưa lại. Mày hiểu
lời tao nói hả. Sa Nặc tiếp tục kêu. Kiền Trắc ve vẩy đuôi không tôi không biết
đâu. Đừng ngạc nhiên, tôi không tạo ra con đường. Con đường có sẳn từ khi tôi
mới sinh ra. Tôi cứ bước đi chở theo người, mang theo hành trang, mang theo tất
cả cuộc đời.
Đêm ấy trăng sáng viên mãn phủ trùng kinh thành Ca Tỳ La Vệ
như chưa bao giờ sáng. Kiền Trắc ngủ hồn nhiên trong ánh trăng chiều xuyên qua
tàu ngựa. Sa Nặc nằm nhìn trăng
trằn trọc băn khoăn… nhiều lần Sa Nặc đứng dậy, định
kêu ai đó tiết lộ chuyến đi sắp
tới nhưng người nài lại nằm xuống. Phần Thái Tử Tất-Đạt-Đa rất trầm
tỉnh ngồi coi
đám vũ công cung đình múa hát.
Thưởng tiền cho họ nhiều hơn thường lệ.
Trầm tỉnh Thái Tử ăn chén cháo khuya,
không một ai
nghi ngờ gì
khi nghe ngài kêu họ
đi ngủ sớm. Chờ cho mọi người ngủ say ;
Thái Tử
ngồi nhìn cung
điện thân yêu tràn đầy
kỷ niệm lần
cuối rồi nhẹ nhàng
bước đi. Kiền Trắc ngạc
nhiên khi bị đánh
thức lúc giữa đêm. Thái Tử và Sa Nặc
đứng cạnh Kiền Trắc. Sa Nặc như cố sức
van lơn – chủ nhân ơi xin
người suy nghĩ lại. – suy nghĩ
gì nữa, Thái Tử dịu
dàng đặt tay lên vai
Sa Nặc, thời gian có đợi chúng ta đâu, bao câu hỏi đang đợi ta
trả lời. Thái Tử đi trước nắm dây cương, Sa Nặc lẻo đẻo đi phía sau, nhẹ nhàng
vòng ra cửa sau rời hoàng cung. Hai người trèo lên yên. Sa Nặc tiếp tục van
xin, cố gắng làm cho Thái Tử mềm lòng. Chủ nhân ơi, sinh, lão, bệnh, tử, cuộc
đời là bể khổ, hầu như ai cũng biết và chấp nhận. Chủ nhân cần gì phải đi xa.
Mà đi đâu. Vị Thái Tử như không trả lời mà nghiêng đầu xuống thì thầm với Kiền
Trắc và cũng như nói cho cả ba cùng nghe. Này Kiền Trắc có nghe không, người ta
phản kháng không được đành thụ động mặt mũi buồn rầu. Vậy cũng gọi đó là trả
lời. Không như mày lòng tràn đầy. Mày luôn vẩy đuôi trong mọi trường hợp. Không
đó là mày thách thức. Nhưng mà Kiền Trắc ơi, mày chỉ thoát ly trần thế trong
giây phút chóng qua thôi. Còn phải thử nghiệm và dấn thân sâu xa hơn. Tôi không biết. Tôi không tạo ra con đường. Con đường có sẳn
từ khi mới sinh ra. Tôi cứ bước đi chở theo người và hành trang, mang theo trên
lưng tất cả cuộc đời.
Kiền Trắc vẫy đuôi, bốn vó gõ đều lốc cốc xuống con đường
ướt đẫm sương đêm. Thái tử Tất Đạt Đa tiếp tục thì thầm. Lần nầy người như nói
cho Sa nặc nghe – Ta đi đâu ?? Thú thật ta chưa biết nhưng ta chỉ biết, khi con
người ý thức được già nua, bệnh tật. Sống để mà sửa soạn chết. Buồn sao Sa nặc
ta ơi……. Ta đi đâu cái đích đến chắc chắn phải là điểm hẹn để trả lời câu hỏi –
khi mà thể xác mất, tinh thần tự do tạo ra bản ngã của ta luôn có mất theo
không? Nếu không mất nó tồn tại như thế nào? Việc sinh cũng như việc tử. Thể
xác và tinh thần có thể đồng nhất hoá được không ? Như ánh sáng hoà với bụi bậm
chiếu sáng một đời sống khác đích thực, bất tử vượt ra khỏi cỏi luân hồi. Đấy
mới thực là câu hỏi. Yếu tố nào tạo ra ta, sau đó ta về đâu?
Cuối cùng sông Anoma hiện ra, dưới ánh trăng đêm tàn nhấp
nhô từng gợn sóng bạc. sau nầy Sa nặc buồn bã nhớ lại. Sông Anoma, bên nầy
sông, bên kia bờ, khoảng cách giới hạn đôi bờ lại chỉ là sợi tóc giữa người ra
đi tìm chân lý và kẻ quay về. sau khi xuống ngựa, hai người đến bờ cỏ bên sông
ướt đẫm sương. Thái Tử từ tốn nhìn thẳng vào mắt Sa Nặc – Thôi ta chia tay nhà
người còn có vợ con. Thái Tử bỏ lửng câu nói (sau nầy khi thành Phật, Đức Phật
chỉ chỉ cho mọi người con đường mà không rủ, chỉ dẫn khác với rủ ren). Rõ ràng
Thái Tử để cho Sa Nặc tự do quyết định theo Ngài tiếp tục cuộc hành trình hay
là quay về. Sa Nặc là người có tâm nhưng tâm ấy thụ động rụt rè chưa đủ lực.
Thay vì tiếp tục cuộc hành trình, Sa Nặc cúi lạy Thái Tử rồi chia tay Ngài. Vì
thế Sa nặc là người đầu tiên được Phật trao đổi luận đề thứ nhất khổ đế trong
Tứ Diệu Đế. Đồng thời Sa nặc thuộc về nhóm giác ngộ sau chót, khi Phật trở
thành chánh quả trở về thành Ca tỳ la vệ thuyết cho hoàng gia và Sa nặc cùng
nghe.
Đêm ấy ngựa Kiền Trắc chở Thái Tử Ttất Đạt Đa qua sông Anoma
. Thái Tử trở thành bậc Thượng Đẳng Thượng Giác. Kiền Trắc cũng chứng quả. Quả
vị của Kiền Trắc chứng, ngoài công lao chở người, còn ở chổ năng, sở (cái thấy, cái biết) tiêu vong, quên mình như
hạt phù sa tan trong giòng Anoma. Như một muối dần tan trong biển mặn…
Vĩ Thanh: Trong kinh không nhắc Kiền Trắc vì có “hằng hà sa
số Phật” Đức Phật chỉ nêu một số danh xưng của các vị để thuyết kinh, chớ không
thể nêu tên ra hết. Vì thế các ngài là những vị Phật vô danh, không tên nhưng
khi giở bất cứ trang kinh nào của Phật nói đều ẩn hiện bóng dáng các Ngài. Một
ngàn năm sau, Kiền Trắc xuất hiện lần thứ hai về Đông Độ để chở ngài Tam Tạng
qua Tây Trúc thỉnh kinh. Tam Tạng trở thành Phật và lần tái sinh này Kiền Trắc
cũng đắc quả vị Phật.