Lịch sử của người Việt trong thế kỷ qua là lịch sử của
đấu tranh, ly tán. Thơ lục bát, các thể thơ có vần là phương cách nối kết chúng
lại, các mảnh rời ấy của lịch sử và tâm hồn. Mặc dù không phải bao giờ cũng
thành công, và tránh khỏi gượng ép, nhìn chung Cung Trầm Tưởng nối kết những thế
giới khác biệt của ông và nâng sự liên kết này lên thành thăng hoa. Dù cũng lấy
cái nhìn phi lý làm trọng tâm, cho cuộc đời là sự nghịch lý, tồn tại là bi kịch,
như từ thời du học ở Pháp, Cung Trầm Tưởng đứng riêng một góc giữa các nhà thơ
khác. Ông hình như lúc nào cũng có một điều gì để nói, sắp nói. Ngôn ngữ được sử
dụng trước hết như phương tiện biểu đạt, và nhà thơ như một kẻ sinh ra trong
hoàn cảnh bất ngờ, may mắn hoặc bất hạnh, chứng kiến khung cảnh ấy, bi kịch ấy,
bí mật ấy. Ông có nhu cầu muốn làm chứng, có sự chân thành bảo vệ đối với sự thật
và các nạn nhân. Vì vậy nhiều bài thơ của ông có tính chính xác; việc sử dụng
chữ trong một câu, sự ngắt dòng, sự chọn lựa thể thơ, tuy không phải không có
ngẫu hứng, đã diễn ra với nhiều đắn đo, cân nhắc...
CUNG
TRẦM TƯỞNG, SỰ THĂNG HOA
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Nhịp điệu, thời tiết, mùa màng cây cỏ, sự tuần hoàn
của hủy diệt và hồi sinh là động lực của thơ Cung Trầm Tưởng. Từ những bài đầu
tiên, khác với các nhà thơ cùng thời, Cung Trầm Tưởng chọn đi con đường riêng,
mở rộng biên giới của ngôn ngữ trong giới hạn của thơ có vần điệu. Lịch sử của một nhà thơ khác với tiểu sử một
cá nhân. Lịch sử ấy gắn liền với nơi chốn người ấy sinh ra, lớn lên, sống và viết,
nhưng không theo trật tự thời gian. Yeats, thi sĩ nước Anh, nói rằng vào năm mười
tám tuổi bạn trở thành chính bạn, và từ đó về sau suốt cả đời còn lại, bạn chỉ
thêm vào các chi tiết. Cung Trầm Tưởng làm những bài thơ đầu tiên vào khoảng tuổi
ấy hoặc trẻ hơn. Nhưng suốt cả đời sau không chắc ông chỉ bổ sung các chi tiết,
mà còn có thể đi qua những khúc quanh ghê gớm.
Giai đoạn làm thơ trong tù, mười năm sau 1975, là
giai đoạn đặc biệt, khi ngôn ngữ Cung Trầm Tưởng chuyển hóa thành một ngôn ngữ
khác, vừa hiện thực hơn vừa huyền ảo hơn.
Nắng nhói như kim khêu thương tích
Thuyền mây từng mảng vỡ lênh đênh
Trong trăm nghìn mảnh trời kia vỡ
Có một đời ta trôi bấp bênh
Chủ nghĩa siêu thực ảnh hưởng tới nhiều nhà thơ miền
Nam thời ấy, thật ra là sự phát triển đến cực đoan của chủ nghĩa lãng mạn. Một
nhà thơ siêu thực xem bài thơ là sự kiện, là vật thể độc lập, và như vậy ngôn
ngữ tồn tại như một bằng chứng của tình yêu và đời sống. Sự bất ngờ của ngôn ngữ
Cung Trầm Tưởng trong một số bài thơ ông viết những năm cuối của miền Nam, hay trong
trại cải tạo sau này, thể hiện sức tưởng tượng dồi dào, là khởi đầu của khuynh
hướng siêu thực.
Điển chế thơ bằng ngôn ngữ đôi,
Ý nâu xen lẫn nghĩa hung vàng.
Như trong xanh hứa của màu mận
Nghe vỡ eo sèo trái nẫu đen.
Căn cước cá nhân và căn cước tập thể là những khái
niệm quan trọng. Đó là sự mô tả khả năng của chúng ta tham dự vào số phận người
khác, hạnh phúc và khổ đau của người khác, ta vào những bi kịch cá nhân và đất
nước, cùng chia sẻ gánh nặng của đau đớn, bệnh tật, hoạn nạn, sự thua cuộc, nói
cho cùng là danh dự của người viết.
Mưa rơi, đêm lạnh Sài Gòn
Mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi
Quê hương là nơi bạn chờ dịp để trở lại. Khi chúng
ta còn trẻ, những tác phẩm ở lại với chúng ta lâu hơn tác giả của chúng. Khi
chúng ta lớn lên, những tác giả ấy tìm cách quay lại, ở lâu hơn tác phẩm, như bạn
cũ tìm nhau, cuộc đời đi tìm cuộc đời. Mặc dù nổi tiếng sớm, có nhiều bài thơ
được phổ nhạc, nhưng trước 1975, Cung Trầm Tưởng làm thơ không nhiều. Sau đó, số
lượng sáng tác của ông vượt lên, trở thành một trong những người viết nhiều nhất
vào giai đoạn tù đầy.
Lều dựng thô sơ đứng đụng đầu
Lối vào nhớt nhát rét bùn bâu
Ngô ăn trong rá còn loang máu
Của ngón tay đan đứt vì vầu
Theo tác giả, vầu là một loại tre, thân to, mình mỏng
nhưng rắn, dùng để làm nhà. Khi lần đầu tôi đọc cùng lúc những bài thơ thời
Paris của Cung Trầm Tưởng và những bài ông viết sau này, tôi gặp khó khăn nối kết
chúng vào nhau. Có một đứt đoạn tàn nhẫn, có lẽ không phải của ngôn ngữ mà của
đời sống. Về sau tôi dần nhận ra chính sự đứt đoạn ấy, giữa một ngôn ngữ lãng mạn
và một ngôn ngữ hiện thực pha lẫn siêu thực, là sự đứt đoạn tất nhiên, là bước
nhảy vọt của ý thức, và như vậy là chuyển biến tất phải xảy ra ở một người sống
hết mình với lịch sử đất nước.
Bao thanh xuân ảo vọng bị chôn vùi
Đồng lúa mới chết non từng nhánh mạ
Điều gì cho phép chúng ta nghĩ rằng ngôn ngữ của một
nhà thơ là gắn bó với kinh nghiệm cá nhân, thay vì, tiếng nói cộng đồng? Đó
không những là mối quan hệ giữa người viết và đề tài mà còn là phong cách tiểu
sử. Một ngày mùa thu năm 2014, khi đứng trong cửa sổ một khách sạn nhỏ ở
Aix-en-Provence, trời mưa vừa dứt, tôi bỗng nhớ đến mấy câu thơ sau đây của
ông.
Chân phương lòng thấy nao nao
Với muôn thương mến lên cao hôn trời
Đó là sự chuyển hóa siêu việt (transcendence). Ông
viết bài thơ này năm 1954. Hơn hai mươi năm sau, 1977, nhà thơ sẽ phải viết những
câu khác, ở Hoàng Liên Sơn, cũng mùa thu.
Lá rơi rừng ngập lá rơi
Quanh tôi thu đến bằng trời kín mây
Có vẻ như sự chung kết đã được báo hiệu. Một cách lặng
lẽ, không tuyên ngôn ồn ào, sử dụng thể thơ bình dân, lục bát, Cung Trầm Tưởng
từ sớm gieo vào thơ Việt những hạt giống đầu tiên của lối viết mới, lối nghĩ mới,
vượt ra khỏi khuynh hướng tiền chiến, lãng mạn và tượng trưng. Bằng cách nào? Bằng
ngôn ngữ bất chợt, rời rạc, xuất thần, lối nói hồn nhiên, các bước nhảy liên tưởng
(leap associations), các hình ảnh gần với siêu thực. Thơ như một tấm gương phản
chiếu chính mình: trong những bài thơ thời trẻ có hạt giống của những bài ông sẽ
viết sau này, trong những bài viết sau này, nhất là giai đoạn lao tù, có bóng
dáng của bài thơ thanh xuân.
Nếu một người đã từng:
Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Thì có lúc sẽ:
Ngày tiễn em về nghĩa đoan thê
Núi chơ vơ đứng sững ê chề
Trong từng chiếc lá thu vàng rụng
Lịch sử của tự do của dân tộc chúng ta là lịch sử của
thất bại, tan rã, mất mát. Vậy thì thơ ca và ngôn ngữ có thể làm được gì? Nhà
thơ phải giữ cho được trong ngôn ngữ của mình kiến thức, tư tưởng, tình yêu, sự
bao dung và phản kháng, cảm hứng và chiêm nghiệm, và truyền lại điều ấy bằng
ngôn ngữ và ký ức. Chúng ta chỉ làm được một điều duy nhất: chống lại quên
lãng. Âm nhạc, sự trùng điệp, sự hiệp vần, phép luyến láy, nhịp điệu, nói chung
là sự lập đi lập lại, là đặc tính cố hữu của thơ ca, và là phương pháp duy nhất
mà con người như những nạn nhân có thể nuôi dưỡng ký ức trong trầm tích quá khứ.
Hàng trăm năm. Sau khi các cấu trúc chính trị đã biến mất.
Kể từ đó trên phong nhiêu trái đất
Những mùa vàng ủ đợi cuối đường hoa
(Sài Gòn 1988- Saint Paul 2008)
Khuynh hướng sử dụng các thể thơ như sự lưu giữ ký ức,
từ rất sớm, ở Cung Trầm Tưởng là đặc biệt lâu bền, khuynh hướng này trở thành
chiếc cầu nối quan trọng giữa hai thế giới, cũ và mới, thanh bình và hỗn loạn, tự
do và tù tội, lãng mạn và hiện thực, ca ngợi và phản kháng, khuôn mặt của tình
yêu và khuôn mặt trong gương của nó. Ông là nhà thơ của hai thế giới ấy, cùng
lúc.
Đời ngoài mỗi lúc một cao thêm
Khi ta mỗi lúc một xương mềm
Đó là sự chiêm nghiệm. Lịch sử của người Việt trong
thế kỷ qua là lịch sử của đấu tranh, ly tán. Thơ lục bát, các thể thơ có vần là
phương cách nối kết chúng lại, các mảnh rời ấy của lịch sử và tâm hồn. Mặc dù
không phải bao giờ cũng thành công, và tránh khỏi gượng ép, nhìn chung Cung Trầm
Tưởng nối kết những thế giới khác biệt của ông và nâng sự liên kết này lên
thành thăng hoa. Dù cũng lấy cái nhìn phi lý làm trọng tâm, cho cuộc đời là sự
nghịch lý, tồn tại là bi kịch, như từ thời du học ở Pháp, Cung Trầm Tưởng đứng
riêng một góc giữa các nhà thơ khác. Ông hình như lúc nào cũng có một điều gì để
nói, sắp nói. Ngôn ngữ được sử dụng trước hết như phương tiện biểu đạt, và nhà
thơ như một kẻ sinh ra trong hoàn cảnh bất ngờ, may mắn hoặc bất hạnh, chứng kiến
khung cảnh ấy, bi kịch ấy, bí mật ấy. Ông có nhu cầu muốn làm chứng, có sự chân
thành bảo vệ đối với sự thật và các nạn nhân. Vì vậy nhiều bài thơ của ông có
tính chính xác; việc sử dụng chữ trong một câu, sự ngắt dòng, sự chọn lựa thể
thơ, tuy không phải không có ngẫu hứng, đã diễn ra với nhiều đắn đo, cân nhắc.
Dù không phải là người hay sử dụng ngôn ngữ đường phố, có vẻ như ông sẵn sàng đưa
vào thơ thứ tiếng nói bình dân, thân mật, tự nhiên một cách bất ngờ. Điều sau
cùng này, không phải dễ nhận ra.
Lên xe tiễn em đi
chưa bao giờ buồn thế
trời mùa đông Paris
suốt đời làm chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
anh nói bằng tiếng hôn
không còn gì lâu hơn
một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
tuyết rơi buồn mênh mang
cầm tay em muốn khóc
nói chi cũng muộn màng
Hình ảnh của lá cỏ, tuyết, dòng sông, đèn vàng, sỏi
đá, tuổi trẻ, Paris và miền Nam nước Pháp, thiên nhiên với nét hoang dã, đêm tối,
tạo nên không gian của nhà thơ. Đó là một trong những bài thơ rất sớm của Cung
Trầm Tưởng, dễ hiểu, trong suốt, ngôn ngữ đẹp, nhưng vẫn chứa lãng đãng nỗi
nghi ngại bất an, một tình yêu đầy lo âu khó giải thích. Ngôn ngữ trong bài thơ không cầu kỳ, không có
từ Hán Việt, có sao nói vậy, mà đẹp. Như vậy, tiếng Việt, sau nhiều thế kỷ phát
triển, đã có thể biểu tả một tâm trạng phức tạp, một cảnh đời khá xa lạ, tận
phương Tây, mà vẫn đủ sức chuyên chở tâm tình người xa xứ, sầu mộng, xao xuyến.
Freud cho rằng quá trình thăng hoa là một trong những
thành tựu lớn nhất của tâm trí con người. Đã khắc sâu vào tâm khảm từ nhiều năm
trước, nhưng khi tôi đến đó, đèn trên sân ga Lyon không vàng mà đỏ rực trong
tuyết. Tôi tin rằng nó chỉ đỏ với tôi. Thơ viết ở Paris, về một tình yêu ở nước
Pháp, mà vẫn hoài niệm. Hoài niệm vốn là cốt tủy của người Việt. Cung Trầm Tưởng
từng nhắc đến quan niệm của Paul Valery: "bài thơ là một sự ngập ngừng kéo
dài giữa âm và nghĩa" (Le poème, hésitation prolongée entre le son et le
sens). Có những sửa đổi của nhà thơ qua nhiều năm sẽ còn để lại tranh luận, như
:
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Sửa thành:
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi cuồng mênh mang
Hay là:
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Sửa thành:
Trời mùa đông Paris
Rét cắt nghìn phân ly
Riêng tôi, tôi thích những câu thơ cũ. Vì nhạc tính trong
chúng cao hơn. Chữ của chúng tự nhiên hơn.
Thơ tình Cung Trầm Tưởng, một số bài được Phạm Duy
phổ nhạc, sẽ còn ở lại với những người yêu nhau, những người trẻ tuổi hoang
mang vào đời. Một bài thơ trừu tượng có thể là một bài thơ tình hay một bài thơ
đầy kỷ niệm. Tuy nhiên, bài thơ ấy hẳn phải đi qua bộ lọc giữa một bên là lý
trí một bên xúc cảm. Có một sự pha trộn khó giải thích giữa thơ lãng mạn, chịu ảnh
hưởng phần nào của thơ Pháp thời trước và thơ thế sự, thời sự. Có một sự trộn lẫn
giữa những câu thơ thô ráp, gần như vụng về, và những câu bay lượn, xuất thần.
Ông là một người kể chuyện, về những hoàn cảnh gần như cực đoan, sự say mê, cái
chết, sự lạc đường, tội ác, chiến tranh. Nhà thơ là người có đức tin tôn giáo,
tôi nghĩ; và các hệ thống ký hiệu và tượng trưng, các biểu tượng, là gần gũi với
tác giả. Câu chuyện về cuộc đời mình từ những ngày mới lớn, du học, trở về miền
Nam phục vụ trong không quân, tù đầy, định cư ở nước ngoài là những chặng đường
được kể lại không những bằng câu chuyện mà còn bằng các nguyên mẫu văn hóa và
giai thoại. Và có khi thoảng mùi tình dục.
Em vào lấp lánh sương bay
Và se sắt thổi heo may đầy giường
Một lối viết được sinh ra từ khoảnh khắc đặc biệt, tựa
như những tai biến trong đời bạn hay giây phút bừng tỉnh. Nhà thơ lãng mạn trở
thành người viết hiện thực. Sự thay đổi như thể chính nó là biểu hiện của sự phản
kháng trước hết đối với tính chất thơ mộng, lý tưởng hóa của văn chương.
Mai sau thịt thắm da liền
Cái yêu khác trước cái nhìn khác xưa
Cái tin vô cớ xin chừa
Sống sao cho xứng lũy thừa thương đau
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng thường xem thơ mình như một
quá trình (*). Tôi nghĩ như thế là hợp lý vì những biến đổi nội tại trong thơ ông
phù hợp với lịch sử mấy mươi năm của đất nước.
Thành quách điêu tàn gạch đớn đau
Tường xiêu cửa mất mái u sầu
Mười hai năm xéo dày viên ngọc
Đó còn là một buổi chiều tôi đi dọc bờ sông, đi qua
những vườn cây xanh biếc, ngát thơm, nhớ đến thơ ông.
Cố tri khóm hạnh bây giờ
Có phải là cây hoa almond hay không mà tôi thấy
chúng buông lả ngọn bên tường vôi trắng. Không phải ý nghĩa, mà chính là một chữ,
âm điệu chữ ấy, như một sự vật, trong mối quan hệ với ngôn ngữ Việt, làm nên
thi tính, tính thơ, của chúng.
Em về giữa lúc khuya sang
Mênh mông đức hạnh dịu dàng ưu tư
Thơ tràn ngập nơi chốn. Về căn nhà chúng ta, khu phố
cũ, hàng xóm. Về những đồ đạc trong nhà, cửa sổ sơn lam, buổi sáng mặt trời lặn,
hàng hiên mưa, người thanh niên ngồi nghe gió thổi trên trang giấy. Thơ ông như
của một người tình, một người lính, một người tù, một công dân. Đó là bốn loại
thơ, bốn chặng đường, bốn chủ đề.
Hãy ưỡn ngực hít sâu vào khí sớm,
Chẳng thuộc riêng ai trời đẹp của muôn lòng
Mùa xuân đến đều chia cho muôn khắp
Kẽm gai nào rào chắn được trời trong
Những kinh nghiệm cá nhân hòa cùng với những sự kiện
tạo nên thứ bi ký của chiến tranh và hòa bình. Nhờ nghệ thuật so sánh và ẩn dụ,
ông mang người đọc đến gần hơn bằng hình ảnh đặt bên nhau:
Bãi nhăn nhàu vết lăn xưa
Một xe thổ mộ giờ trơ gỗ gầy
Mối quan hệ phức hợp giữa hiện thực và giấc mơ không
bao giờ được giải quyết xong. Thơ Cung Trầm Tưởng đầy những mảnh ghép của hiện
thực và giấc mơ, cũng như thời gian giữa ngày và đêm, giữa ánh sáng và bóng tối,
sự tương tác của chúng là bất tận. Thơ kể về sự luân chuyển đất trời, mới mùa
xuân hoa trái đã tàn tạ cuối đông, rồi trở lại, cũng như diễm phúc của tình yêu
và trừng phạt của xa cách. Thơ không thể dành cho mọi người, vì không phải ai
cũng có khả năng đáp ứng với nhịp điệu, không phải ai cũng có nhu cầu và năng lực
nhìn vào đời sống bên trong của mình. Để có khả năng nhìn vào đời sống bên
trong, một người cần có ít nhất hai thứ: niềm vui thú đối với ngôn ngữ cũng như
một người có sở thích đối với thể thao hay hội họa, có người không, và khả năng
xem xét đời sống của mình từ phía khác, và từ điểm khác trong thời gian. Cung
Trầm Tưởng tìm nhiều cách để vượt thoát hoàn cảnh, và để tự chứng minh, vì nhu
cầu của đời sống tâm linh và của hướng thượng, lịch sử phải trải qua mất mát, lấy
chính cuộc đời mình làm trải nghiệm lịch sử, khi ông quyết định ở lại. Thơ Cung
Trầm Tưởng có những bài giản dị và những bài phức tạp, cần tập trung chú ý, như
thể điều mà tác giả muốn đề cập tới bị che khuất đâu đó giữa những chữ.
Thơ là nho mà cũng là sim,
Mỗi chữ buông sang tiếng hạc cầm.
Như trong vó cất của ngựa bạch
Có nhạc chim hồng vỗ cánh cam.
Trong thời đại của thơ tự do, nhà thơ vẫn trở lại với
lục bát, và làm mới chúng bằng trước tác hồn nhiên. Đối với nhiều người, thơ có
khả năng biến đổi (transformative power), sau những kinh nghiệm đau xót, nhà
thơ không thể không thay đổi cái nhìn đối với cuộc đời, sự rung cảm, sức nghĩ,
sự khôn ngoan, sự thông thái minh triết. Chúng ghi dấu ấn lên thơ Cung Trầm Tưởng:
đời sống nội tâm của chúng ta là lớn lao, vừa phản chiếu hiện thực bên ngoài vừa
vận động theo quy luật riêng. Nhà thơ muốn không những ghi lại hiện thực ấy mà
còn chuyển hóa chúng thành diễn biến tâm linh. Thành sự cứu chuộc.
Đời tù bất trắc mây vô định
Lá cỏ ngày nào sẽ rụng rơi
Phiến tròn sẽ gẫy khô từng phiến
Giữa chốn hoang vu tịch mịch đời
Chúng ta không biết đâu là sự quan sát đâu là sự khổ
đau (**). Người đọc nhìn thấy sự băng qua của thời tiết, sự chuyển động của mùa
màng, nỗi xúc động nén lại. Tôi muốn nói khác hơn: tính trừu tượng trong thơ
Cung Trầm Tưởng đã được cụ thể hóa, và biến đổi đi dưới sức ép của ngôn ngữ. Mặc
dù có sự tương thích giữa hoàn cảnh xã hội và đời sống nội tâm, vì trong khi đời
sống bên ngoài được phản chiếu vào nội tâm, thì một cá nhân, một cách vô thức,
cũng tìm cách thế tồn tại thích nghi. Bi kịch lịch sử do vậy chính là bi kịch
cá nhân và ngược lại. Ý thức tập thể, những tâm trí được tập hợp lại, chỉ mở rộng
các kinh nghiệm của bi kịch. Không phải chỉ những nhà hình thức chủ nghĩa mới
tin rằng âm điệu của thơ góp phần làm nên ý nghĩa của chúng.
Đêm mùi cỏ dao
Thở nồng trang sách
Gió cuốn ào ào
Mùa tất bật
Là những câu được khắc vào không gian, làm nên không
gian, cho một hay nhiều thế hệ. Và trong trường hợp cực đoan, như trong thơ phổ
nhạc, hay ca khúc Trịnh Công Sơn chẳng hạn, chính âm nhạc đã tạo thêm hoặc tạo
ra ý nghĩa cho các ca từ. Cả hai, đến lượt chúng, sinh ra một trường hiện thực
khác. Đối với một số nhà thơ, văn chương đi ra từ đời sống hàng ngày, là sự ghi
chép của hiện thực, văn chương và đời sống đi song song với nhau, như hai tấm
gương chiếu vào nhau, như hai đoàn tàu chạy cùng một chiều, cùng một tốc độ,
hình ảnh của các cửa sổ đối với nhau không thay đổi. Đối với một số nhà thơ
khác, đời sống đầy biến động, thơ là cái bật lên từ biến động bất thường, từ những
hoàn cảnh cực đoan, do đó cái bình thường không có chỗ đứng trong thơ của họ. Như
việc sử dụng các ẩn dụ phức tạp của các nhà thơ gần đây. Sự phức hợp ấy tạo ra
bởi hình ảnh giàu có và liên kết rối mù, chồng chéo, không thể giải thích một
cách dễ dàng.
Đàn đúm, dập dìu chợ bắc qua
Lam len xen tím, lục leo chàm
Gió như máu tưới nuôi cơ thể
Nhiệt đới choang choang bật choé hồng
Thơ như thế đã tràn ra khỏi mạch thơ vần điệu, mà ôm
lấy thơ tự do.
Trong thơ Cung Trầm Tưởng, thấy dấu vết của tình dục,
mối quan hệ phân tâm học, những biến đổi gần như ảo ảnh, những chuỗi kết hợp
ngôn ngữ đáng ngạc nhiên ở một người thuộc thế hệ của ông. Thơ có những thăm dò
sâu vào tình yêu, tình dục, nghi lễ của tình yêu, nghi lễ của tình dục. Không
phải ngẫu nhiên mà có một bài thơ của ông được đặt tên là Lễ Chiều, hình như được
viết trong những ngày ông còn ở trên rừng núi, đang tù tội.
Khi anh đến thăm em thì trời hửng ấm
Nước suối hoen trong hang những nhũ thạch mềm
Tuy nhiên không chỉ âm điệu hay từ ngữ là đặc tính
quan trọng nhất của bài thơ, thậm chí là những đối tượng nghiên cứu độc lập, mà
chính sợi chỉ xuyên suốt bài thơ, tức ý nghĩa của nó, làm nên sức mạnh, sự hấp
dẫn. Bài thơ nói về điều gì, trong hoàn cảnh nào, nói với ai, bởi ai. Bài thơ bắt
đầu khi anh đến thăm em. Hoặc khi ngày vỡ ngọt từ múi quả cam, hoặc khi thơ là
nho mà cũng là sim, khi một người chúm môi huýt náo tang thương. Có một pha trộn
rất mạnh giữa khuynh hướng vần điệu và khuynh hướng văn xuôi hoá.
Nhìn nhau thấu đáy Kỳ Cùng
Cho sau còn ngấn thủy chung thì thầm
Trong khi thơ vần điệu có tính dân tộc thì thơ tự do
có khả năng vượt qua biên giới, giao hòa với các dân tộc khác. Nhà ngôn ngữ học
Jakobson cho rằng hình ảnh và ngôn ngữ thơ ca đã được tạo ra trong các thể có vần
ngay từ xưa, giữa những người không biết đọc, biết viết, vì đó là hình thức
không những để dung chứa thông tin lớn, mà còn là cách thuận tiện giúp ghi nhớ
dễ dàng. Ngôn ngữ của ông là ngôn ngữ của chuyển giao, của tượng trưng, biểu tượng.
Điều gì nối kết chúng với nhau để tạo nên câu chuyện kể? Ký ức đến trước, ngôn
ngữ đến sau. Nhưng ký ức là diễn trình, không phải là kho tàng, có khởi đầu, có
biến đổi, ngôn ngữ không phải chỉ là những ký hiệu như các mã số, chỉ định một
lần là xong. Cả hai đều tự mình lớn lên, được sáng tạo mỗi ngày, nuôi dưỡng và
phá hủy cùng lúc. Tôi mốn nói lại: ký ức của chúng ta, ngôn ngữ của chúng ta có
thể được nuôi dưỡng, có thể được dung nạp, hay có thể bị ghét bỏ, bị xua đuổi,
bị huỷ diệt, tùy theo những kẻ làm chủ xã hội là ai. Sự đứng im, cái chết, hay
sự bất lực của mỗi cá nhân và mỗi công dân, không tạo ra tiếng động hay âm nhạc:
kẻ thù của con người, trong mỗi con người, muốn bạn im lặng.
Người về trong lúc tàu đi
Rớt nhanh một nét tường vi hoang đường
Bất kể lịch sử đã xảy ra như thế nào, sự thật đã xảy
ra như thế nào, các thế hệ người đọc, liên tiếp nhau, sẽ không tin vào chúng. Họ
chỉ tin vào một lịch sử được kể lại một cách chính thức. Chỉ có một thứ văn học
duy nhất đối với thế hệ trẻ là văn học được phép. Các nhà thơ thực sự chống lại
điều ấy. Dễ hiểu là khuynh hướng phản kháng của Cung Trầm Tưởng bộc lộ rõ hơn
trong thời kỳ lao tù. Tuy nhiên, đó vẫn là loại thơ trữ tình cá nhân, nặng tính
tiểu sử hơn là phán xét chính trị, là những ghi chép hiện thực hơn là lời kêu gọi
và sự suy tưởng xã hội. Trước sau ông vẫn là nhà thơ trữ tình, với cái nhìn bi
quan xuyên suốt nhiều năm trước đến sau này. Ngay trong những bài thơ sớm nhất ở
miền Nam, nỗi buồn của ông vẫn riêng biệt, lạ lẫm:
Chim tấp nập về reo chuông báo thức
Chiếc đồng hồ rạo rực của tâm tư
Sự tiếp cận với hiện thực hình như không đồng đều,
chưa kể có những thời gian dài không thấy ông sáng tác. Ngôn ngữ Cung Trầm Tưởng
một mặt dịu dàng, đầy âm điệu, đẹp, một mặt gai góc, thể nghiệm, huyền bí. Sự kết
hợp như vậy là lạ lùng, như một bức tranh nửa tối nửa sáng, như một ý thức nửa
tươi trẻ nửa già dặn, khi dòng sông thời gian vừa trôi nhanh vừa chảy sâu.
Đứng sao cho vững tâm hồn
Sống sao cho cái u buồn thăng hoa
Cung Trầm Tưởng có những nỗ lực để tránh lập lại
mình, với những mức độ thành công và không thành công khác nhau. Điều gì đáng
nhớ lại, điều ấy là quan trọng nhất. Lịch sử được nhớ lại bởi các câu chuyện cá
nhân nhiều hơn bởi các sự kiện khách quan. Ý thức được điều ấy, cầm giữ sự thật
trong tay, quay trở lại tìm kiếm khi đánh mất, dò đường theo chúng, nuôi dưỡng
chúng, là ý thức cao nhất của người làm thơ trong một xã hội nhiễu nhương.
Em xanh gương nước ao hồ hạ
Bão đến miền em chết dịu hiền
Trong khi các nhà thơ khác tìm cách nén chặt bài thơ
của mình, loại trừ các yếu tố thừa, làm cho năng lượng của một bài thơ tăng
lên, thì trong nhiều trường hợp, Cung Trầm Tưởng làm ngược lại, hoặc bằng cách
mở rộng biên giới của một bài thơ, đưa vào chúng nhiều dữ kiện của đời sống, những
chi tiết cá nhân và riêng tư mà nhiều nhà thơ khác có thể loại ra, hoặc bằng
cách liên kết các bài thơ với nhau, trong một chủ đề hay một dải băng tần các
xúc cảm. Như một hệ quả, trong thời gian ngắn, ông có thể làm nhiều bài thơ
cùng lúc, chúng vừa khác nhau, vừa phối hợp, như một chuỗi các bài thơ, hay một
hình thức mà nhiều nhà thơ hiện nay gọi là trường ca. Tôi đang nói đến khả năng
liên kết các sự vật, sự liên tưởng gần và liên tưởng xa, giữa các hình ảnh, giữa
hình ảnh và nhịp điệu, giữa quá khứ và hiện tại, các khía cạnh khác nhau của đời
sống. Sự liên tưởng ấy bao giờ cũng có mặt ở các nhà thơ, nhưng ở Cung Trầm Tưởng
là đều khắp, mạnh mẽ. Sự liên tưởng là khả năng chuyển động, như một thực thể
chỉ tồn tại trong sự chuyển động. Thơ ông nhắc chúng ta về điều này: thế giới
là hỗn loạn, lịch sử là không công bằng, nhưng tình yêu mà Thượng đế ban cho
chúng ta là tặng phẩm quý giá nhất, sẽ tồn tại như viên ngọc sáng ngời, trên
tay mỗi người, truyền đi, một cách có điều kiện. Vì tình yêu bị tác động bởi
con người, hoàn cảnh, sự hèn nhát và lòng dũng cảm, tội ác và sự làm chứng.
Sum suê cây tủa tân hình học
Duỗi cánh tay thần đẩy mây lên cao
Tình yêu ấy nếu sống qua thời gian, sẽ trở lại, chiếu
sáng. Trong một thế giới ngày càng thay đổi, sự dị thường ngày càng được dung nạp,
sự di chuyển từ phía này qua phía khác, sự đảo lộn và xem xét lại, ngày càng dễ
xảy ra. Đọc thơ Cung Trầm Tưởng trong tâm thế ấy, trong sự chấp nhận tính nối kết
tương đối, một trật tự ngày càng rời rạc, sự tự làm mới, tự hủy và trở lại, có
lẽ là cách đọc đúng đối với nhà thơ này, tôi nghĩ. Đã có một lần, thơ ông vui vẻ
xiết bao, hạnh phúc xiết bao, nhưng ngay trong ngày ấy, chúng ta không để ý rằng
ông cũng từng đau xót, chúng ta không nhìn thấy, không đọc được. Bây giờ người
đọc của ông sau bấy nhiêu năm đã trưởng thành hơn, tất nhiên, và sẽ có lúc họ
quay trở lại, như một người đi xa thế nào cũng có lúc trở về căn nhà cũ, nhìn
ngắm chỗ ngồi, bậc cửa, vết mực trên tường, hòn đá vỡ, không phải chỉ để nhớ lại,
mà còn để đi tìm câu hỏi cho giây phút hiện tại. Bởi vì ký ức làm nên sự tỉnh
thức. Ký ức làm nên tỉnh thức: đó là thơ Cung Trầm Tưởng. Thơ tình yêu và thơ
thời tù đầy dâu biển. Thơ phản kháng và thơ triết học. Ngôn ngữ Cung Trầm Tưởng
có tính tượng trưng, ký ức về tuổi thơ, và tình yêu như một ký ức, bao giờ cũng
được biểu hiện như những hình ảnh hoặc chói sáng hoặc êm đềm quyến rũ. Hình ảnh
ấy chính là biểu tượng.
Mời em đến cuối cùng ta
Ngất ngây chiêng trống đậm đà trầm mê
Cành vườn lá tược sum suê
Cắn đôi trái cấm môi tê sẫn sờ
Trong khi tình yêu mơ hồ như sương khói thì cái nhìn
có tính trẻ thơ vào thế giới lại trong suốt, càng trong suốt khi người ta tới gần.
Sự bất ngờ trong lục bát Cung Trầm Tưởng, một thể thơ vốn gồm âm điệu khó thay
đổi, khó làm mới, chính là sự ngỡ ngàng của tuổi thơ trước thế giới, của trái
tim đang yêu trước cái đẹp, trước trái tim khác.
Trái mai sau trái thơm nồng
Lời thơ nhân ái về đong đầy hồn
Lục bát là sự lặp lại ở mức cao các vần, các nhịp điệu,
và trong nhiều trường hợp, hình ảnh và ý tưởng. Sự lập lại ấy tạo ra lý thú, tạo
ra một thứ tiếng nói thì thầm, bí mật, yêu dấu, của một tuổi thơ đã mất, được dừng
lại, được gọi về. Trong thể lục bát, sự di chuyển giữa các thời quá khứ, hiện tại,
tương lai trở nên dễ dàng, có lẽ vì thể thơ ấy trong khi ràng buộc về hình thức
thì lại cho phép sự rời rạc và mơ hồ về hình ảnh và ý tưởng. Như một người mất
quê hương, một đứa trẻ mất cha mẹ, không nhớ gì ngoài ký ức hình ảnh mà chỉ có thơ
ca mới mang lại. Đó là định nghĩa của biểu tượng. Tính chất tượng trưng của thơ
Cung Trầm Tưởng xảy ra không chỉ vì bút pháp hình ảnh mà cũng vì cái nhìn, ý thức,
tâm trạng trẻ thơ ấy. Các đứa trẻ sau này khi lớn lên, vì họ cũng phải lớn lên,
mãi ngạc nhiên không hiểu vì sao thế giới này lại đổ vỡ đến thế, kẻ thù lại độc
ác đến thế, bạn bè lại hèn nhát đến thế. Điều khác biệt là, sự bi phẫn chỉ dừng
lại một lúc với chúng ta, rồi quay đi, trả lại cho chúng ta cái thi vị của đời
sống, vẻ đẹp của con người, sự cả tin của thời thơ bé. Sự cả tin ấy là sự kiện
tâm linh, là một niềm tin tôn giáo, là khả năng nhìn thấy trong đau khổ hôm nay
bóng dáng hồi sinh của ngày mai, của sự đi tới, của luân chuyển của vòng đời, bất
tuyệt.
Chú thích:
(*) Cung Trầm Tưởng, Một Hành Trình Thơ, NXB Tiếng
Quê Hương, Virginia 2012. Khi trò chuyện với tác giả bài này, và trong một thư
riêng, nhà thơ Cung Trầm Tưởng cũng nhiều lần nhắc đến khái niệm "hành
trình" của sáu mươi năm sáng tạo, với những bài thơ theo ông là tiêu biểu
như: Thai nghén, Mùa thu Paris, Nguồn cơn, Tiếng gọi đầu năm, Kỳ cùng, Bài ca
níu quan tài, Khoảng cách, Núi và Suối một huyền sử, Ngôn ngữ đôi, Tận cùng
Mán, Sáng ký về người tình đầu.
(**) Trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê, ông nói:
"Người thi sĩ phải đảm nhận cái đau khổ của dân tộc mình. Qua ngôn ngữ. Tạo
ra ngôn ngữ. Ngôn ngữ của đau khổ."
(http://thuykhue.free.fr/stt/c/nc-ctt.html)