Thu Bồn tự nhận mình là kẻ “đánh đu cùng dâu bể”,
cái dâu bể sâu nặng ân tình đối với đồng đội, nhân dân, chính nó đã tạo nên vẻ
đẹp thơ ông, cái vẻ đẹp phong trần, nhuốm bụi đời vừa gian nan khúc khuỷu vừa
ngạo nghễ kiêu hùng và lãng mạn, với một lối viết hoành tráng tuôn trào, luôn
luôn gắn liền với số phận đất nước, bằng một phong cách cuồn cuộn sức sống, cuồn
cuộn cảm xúc, không ngừng nghỉ. Thơ ông rất thời sự và cũng không vì tính thời
sự mà thời gian dễ dàng làm lu mờ đi những gì ông để lại. Ông là người không chờ
cảm xúc mà cảm xúc luôn luôn chờ ông sẵn để sẵn sàng cùng ông vào cuộc. Thơ Thu
Bồn gắn liền cùng thời đại...
THU
BỒN
ĐA ĐOAN VÀ MẪN CẢM
TRUNG TRUNG ĐỈNH
1-
Tôi vẫn tự nhận mình là thằng đàn em may mắn vì có
khoảng thời gian sống chung với các nhà văn Nguyễn Chí Trung, Nguyên Ngọc và
nhà thơ Thu Bồn - ba tác giả viết về Tây Nguyên đều có những tác phẩm xuất sắc,
đóng góp lớn cho nền văn học cách mạng Việt Nam. Đặc biệt là nhà thơ Thu Bồn,
cho tới bây giờ, có lẽ chưa có nhà thơ nào viết được hay và nhiều về Tây Nguyên
như ông. Ông yêu Tây Nguyên từ trong máu lửa, từ trong sống còn của cuộc chiến
tranh. Vào những năm đầu thập niên sáu mươi của thế kỷ trước, ông đã có mặt ở
chiến trường này và những bài thơ đầu tiên ông viết cũng về vùng đất này.
Cũng những năm đó, ở ngoài Bắc, cuộc sống khá êm đềm
và sôi động trong hoà bình với các phong trào thi đua yêu nước xây dựng và bảo
vệ chế độ XHCN non trẻ và tươi đẹp. Nhưng ở trong miền Nam thì cuộc sống của
nhân dân chìm ngập trong một không khí đen tối chưa từng có với những đạo luật
tố Cộng, tìm diệt, giết lầm hơn bỏ sót, đặc biệt trước đó, Luật 10/59 của chính
quyền Ngô Đình Diệm với lưỡi lê và máy chém đã khiến nhiều cán bộ cách mạng,
nhiều phong trào cách mạng ở miền Trung bị đánh bật lên rừng Tây Nguyên.
Thu Bồn chính là một thiếu sinh quân, một chiến sĩ
trẻ trung nhưng dạn dày kinh nghiệm sống và chiến đấu trong các phong trào cách
mạng của Tây Nguyên thời kỳ đó. Và trường ca “Bài ca chim Chơ Rao” được ra đời
cũng quyết liệt và hồn nhiên như chính Thu Bồn có mặt sớm cùng nhân dân. Nó được
viết ra từng trang, từng chương dưới ánh lửa bếp nhà sàn trong các buôn làng
Tây Nguyên. Nó được cùng tác giả tham gia những trận đánh và những lần chống bố
ráp của quân thù, sau đó được “hành quân” theo bước chân của nhà thơ Thanh Hải
đi bộ ra Bắc, về tới báo Văn Nghệ và ngay lập tức “Bài ca chim Chơ Rao” được in
trang trọng như một tờ phụ trương. Có thể nói trường ca “Bài ca chim Chơ Rao” của
Thu Bồn đã đánh thức đúng lúc một thể loại văn học nhiều năm trước đó gần như bị
bỏ quên. Nó được đón nhận nồng nhiệt không chỉ đối với giới sáng tác mà ngay lập
tức, nó được giới trí thức trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên vô cùng ngưỡng
mộ. Hai nhân vật chính của trường ca là Hùng và Rin nhanh chóng được biết đến
như một biểu tượng của tinh thần đoàn kết Kinh- Thượng.
Những năm sau này, Thu Bồn đến ở căn phòng nào, chỉ
trong thời gian ngắn, căn phòng ấy biến thành không gian của Tây Nguyên. Ông
say sưa với những cuộc cải tạo phòng, nhà. Ông trần lưng khuân đất đá, chặt, đẽo
ghế bàn, sửa sang bếp núc. Ông không phải người có lối sống lập dị, nhưng nhìn
dàn thớt dài hàng chục chiếc như dàn chinh chiêng Tây Nguyên từ cái to nhất đến
cái nhỏ nhất treo trên tường bếp nhà ông, không thể không thán phục con người
có nhiều ý tưởng độc đáo và yêu Tây Nguyên đến kỳ lạ này.
2-
Thu Bồn tự nhận mình là kẻ “đánh đu cùng dâu bể”,
cái dâu bể sâu nặng ân tình đối với đồng đội, nhân dân, chính nó đã tạo nên vẻ
đẹp thơ ông, cái vẻ đẹp phong trần, nhuốm bụi đời vừa gian nan khúc khuỷu vừa
ngạo nghễ kiêu hùng và lãng mạn, với một lối viết hoành tráng tuôn trào, luôn
luôn gắn liền với số phận đất nước, bằng một phong cách cuồn cuộn sức sống, cuồn
cuộn cảm xúc, không ngừng nghỉ. Thơ ông rất thời sự và cũng không vì tính thời
sự mà thời gian dễ dàng làm lu mờ đi những gì ông để lại. Ông là người không chờ
cảm xúc mà cảm xúc luôn luôn chờ ông sẵn để sẵn sàng cùng ông vào cuộc. Thơ Thu
Bồn gắn liền cùng thời đại. Ở thời điểm nào ông cũng có những trường ca hay, những
bài thơ hay, những câu thơ cực hay.
Ông cùng với trường ca, chiếc ba lô, bộ quân phục,
cây bút và cây súng đi hết chặng đường chống Mỹ thăng trầm của đất nước, cho đến
tận sau này. Ở chặng đường nào ông cũng có những cái mốc đáng kể, kể cả trường
ca và thơ ngắn. Đối với Thu Bồn, ông viết như một nhu cầu sống. Trường ca hay
thơ trữ tình, tiểu thuyết hay truyện ngắn, tất cả đều do nhu cầu của đời sống,
chính vì thế cảm xúc thơ ông lúc nào cũng tươi, cũng mới. Mọi ý tưởng, mọi
ý đồ kết cấu đều được cảm xúc đưa đón, không nề hà câu nệ. Đặc biệt ở trường
ca, ông quan niệm trường ca là một toà lâu đài thơ, vì vậy người viết trường ca
cũng phải là một kiến trúc sư thiết kế nên toà lâu đài đó. Ông lại cho rằng, “vật
liệu” làm nên trường ca cũng phải khác các thể loại khác, mặc dù “vật liệu” ấy
vẫn là ngôn ngữ. Ngôn ngữ có thể làm nên tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ dài, diễn
ca, nhưng ở trường ca nó vẫn phải khác với ngôn ngữ làm nên thơ dài, truyện thơ
và diễn ca..
Thu Bồn luôn luôn có ý thức về cấu trúc tác phẩm của
mình, mặc dù cái cấu trúc ấy được hình thành thông qua nguồn cảm xúc chắt ra
hay bung phá ra đều từ sự va chạm giữa tình cảm cá nhân với tình cảm cộng đồng.
Ông nuôi dưỡng cảm xúc nghệ thuật của mình bằng chính nguồn sống của trái tim nồng
nhiệt của ông đối với Đảng, với nhân dân. Ông quan niệm, cảm xúc cũng là một loại
“vật liệu” làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của nghệ thuật, nhưng nó là một thứ “vật
liệu” đặc biệt, một thứ “vật liệu” chỉ xuất phát từ trái tim nghệ sĩ.
Người nghệ sĩ càng sống chân thành, tận tâm tận lực
với trách nhiệm công dân của mình, với tình thương yêu gia đình, người thân, bạn
bè, quê hương, đồng đội, thì cảm xúc càng mạnh mẽ. Quan niệm ấy được thấy rõ nhất
trong bài thơ “Gởi lòng con đến cùng Cha”. Trong tất cả những bài thơ viết sau
khi Bác mất, theo tôi, bài “Gởi lòng con đến cùng Cha” là bài thơ hay nhất. Nó
hay nhất không phải vì tác giả có ý tưởng gì mới mẻ, có cách thể hiện gì cao
sang, độc đáo, hoặc thống thiết, hoặc cứng cỏi mà chỉ bởi nó chân thành, mộc mạc,
tự nhiên, tự đáy lòng tác giả, tự đáy lòng người dân đối với lãnh tụ. Từng câu
thơ, từng lời thơ nếu “trích ngang” sẽ thấy thậm chí nó còn cũ, còn thô, nhưng
cái “cũ” ấy, cái “thô” ấy mới chính là tấm lòng tác giả, và cũng chính là tình
cảm của nhân dân miền Nam: “...Tiếc rằng trước lúc chia ly/ Con chưa được
thấy dáng đi của Người/ Hẳn trong đôi mắt sáng ngời/ Có nguyên vẹn một khoảnh
trời phương Nam...”.
3-
Thu Bồn bề ngoài có vẻ hùng hổ, ngang tàng, nhưng
bên trong ông rất hiền từ, phục thiện, cởi mở và thơm thảo. Dáng vóc ông to cao
lực lưỡng nhưng con người ông lại hiền lành, dễ thương. Ông giỏi chặt cây làm
lán; ông giỏi kiếm măng, kiếm nấm; ông giỏi nấu ăn, say sưa làm đồ ăn tiếp bạn,
tiếp khách. Ông thích tụ tập bạn bè, đọc thơ, tán dóc, như câu thơ ông đã viết:
“Nhà tôi thung lũng mù sương/ Ai chê cũng đón ai thương cũng mời”.
Rất ít khi thấy Thu Bồn yên tĩnh. Anh Ngô Thảo có lần
bảo tôi: “Khoảng cách giữa hai trận đánh, Thu Bồn làm thơ. Khoảng cách giữa hai
đợt tránh bom pháo, Thu Bồn làm thơ. Thu Bồn làm thơ khi đang hành quân, khi
đang yêu, khi đang đói, khi đang say và cả khi đang nhọc nhằn nhưng say mê đào
đất, khuân đá làm nhà. Thu Bồn làm thơ khi bán xe, bán nhà, tiêu tiền, làm lịch.
Vui chơi hay làm việc gì, kể cả viết tiểu thuyết, kể cả việc chẳng ra việc gì,
thực ra cuối cùng rồi cũng chỉ để nuôi thơ”.
Trong cuộc sống, Thu Bồn là một người đa đoan, mẫn cảm.
Ở đâu ông cũng có bạn, ông đến đâu cũng quyến rũ được tình cảm của nhiều người
bằng sức mạnh của chân tình, của sự nhiệt tâm sôi nổi. Những năm cuối đời, mỗi
lần Thu Bồn ra Hà Nội, bên ông bao giờ cũng là nhà phê bình Ngô Thảo, bên anh
Ngô Thảo và tất nhiên, còn có rất nhiều bạn bè văn nghệ khác. Ông bao giờ cũng
trở thành tâm điểm chú ý của mọi người. Ông đọc thơ, hát thơ, ngâm thơ hồn
nhiên, mạnh mẽ, hết mình. Ông là người luôn luôn sống quanh bạn bè, sống cùng bạn
bè.
Suốt cả cuộc đời ông là một cuộc hành quân dài từ
quê hương đất Quảng đến Tây Nguyên và từ đó đến mọi miền của đất nước. Ông ra Bắc
vào Nam, lên rừng xuống biển, nơi đâu cũng rộn rã bạn bè. Kể cả khi ông tới Tây
bán cầu đọc thơ cùng các nhà văn Á Phi, sau những ngày vui nhận giải văn học
Lotus, về nước, ông toàn kể chuyện về bạn bè đủ các màu da. Ông đến Ăng Ko hát
cùng bè bạn, thánh thần, sau cuộc chiến đánh bại bọn diệt chủng phi nhân tính của
đất nước này. Và ông làm thơ. Làm thơ và kết bạn. Kết bạn và làm thơ. Cuộc đời
của nhà thơ Thu Bồn chính là bản du ca về tình bạn và tình người.