Câu chuyện văn chương của nhà thơ
Nguyễn Đức Mậu: “Một buổi sáng, tôi đang ngồi đọc báo thì anh bạn nhà thơ mở cửa
bước vào. Anh đưa cho tôi tờ tạp chí có in thơ của các nhà thơ gồm nhiều thế hệ:
"Ông đã đọc thơ ở số này chưa? Dở lắm. Thơ của lớp trẻ thì sa vào những đề
tài vụn vặt riêng tư. Còn lớp nhà thơ chống Mỹ, một số người tên tuổi đã thành
danh một thời, không hiểu sao thơ họ bây giờ cũ về đề tài, cũ cả cách diễn đạt.
Cứ cái đà này, không biết thơ ca nước mình sẽ đi về đâu". Tờ báo anh bạn
đưa, tôi đã mua đã đọc, đọc kỹ từng tác giả. Thực ra, thơ ở số báo này nói
riêng và thơ hiện nay không đến nỗi bi quan như anh đã nói. Biết tính anh hay
chê bai, tôi hỏi anh cụ thể từng tên bài, từng tác giả mà anh cho là dở. Anh trả
lời ấp úng, chung chung, thiếu chính xác… và cuối cùng anh đành thừa nhận rằng…
mình chỉ liếc qua chứ chưa kịp đọc. Trời ơi, chưa kịp đọc mà đã chê, mới liếc
qua tên tác giả đã thấy thơ dở, lạ thật”.
CAO GIỌNG
KHEN CHÊ
NGUYỄN ĐỨC
MẬU
I.
Anh bạn tôi
là nhà thơ hay cao giọng luận đàm, hay tuyên ngôn những lời to tát. Gặp đồng
nghiệp anh ta thường khuyên: "Hãy viết, hãy tìm tòi, hãy chiến đấu hết
mình cho thơ ca". Anh cũng làm thơ, tôi cũng làm thơ, còn bao nhiêu người
khác làm thơ nữa. Nhiều người âm thầm viết, thơ có bài hay, có câu xoàng cũng
là chuyện thường. Nghề làm thơ viết văn tuy có đặc thù riêng nhưng cũng nên quan
niệm như bao nghề khác. Làm gì phải lên gân lên cốt, phải gồng mình, phải khác
người cho mệt.
Tháng trước, thấy ảnh của anh chụp
chung với các tác giả trẻ trên báo. Bên cạnh bức ảnh là bài trả lời phỏng vấn
dài dằng dặc của anh. Sau một hồi dẫn chứng về thơ Đông, Tây kim cổ, anh nói về
cái lâu đài vĩnh cửu của thơ, cái gian nan vất vả của các nhà thơ suốt đời chiến
đấu hy sinh vì nghệ thuật. Cuối cùng là lời khuyên của anh với các tác giả trẻ.
Anh khuyên lớp trẻ phải đi, phải học, phải nghiêm khắc với mình ngay từ thuở
ban đầu. Đi để hiểu thêm đời sống, học để biết sâu biết rộng, nghiêm khắc với
mình để tránh sa vào sự cũ mòn dễ dãi. Xét cho cùng, những lời anh nói đều đúng
cả nhưng không có gì là mới nếu không muốn nói là đã cũ. Những lời khuyên của
anh nghe thật róng riết, căng cứng. Anh dạy bảo, anh ngỡ mình là người đi tiên
phong, là bậc đàn anh của các tác giả trẻ. Sao anh không nghĩ trên con đường
văn học, anh là đồng nghiệp, là bạn bộ hành của họ?
Tháng vừa rồi, ở một tờ báo khác, lại
thấy anh cao đàm, khoát luận về "sứ mệnh cao cả của thi ca". Anh kêu
gọi các nhà thơ phải sáng tạo tìm tòi. Đúng, khi đã cầm bút, ai chẳng muốn đổi
mới, nào có ai muốn đi lại lối mòn quen thuộc của mình. Sáng tạo tìm tòi là do
đòi hỏi tự thân của mỗi tác giả có gì mà phải cao giọng. Đọc những lời phát biểu
tuyên ngôn kia, người đọc luôn thấy anh tự lấy mình làm trung tâm, làm chuẩn mực,
hướng đi cho những người khác. Mặc dù những quan niệm của anh về thơ đôi chỗ đã
quá đát, lỗi thời. Anh hô hào mọi người đổi mới, còn anh đã đổi mới được đến
đâu? Sao anh ít chịu nhìn lại mình mà cứ hay dạy dỗ người khác? Đổi mới thơ - một
quá trình lâu dài đâu phải một sớm một chiều là có được. Mọi người công nhận
anh tâm huyết với thơ nhưng anh đừng nghĩ mọi người cũng phải khổ công tâm huyết
như mình. Hàng ngày cuộc sống của anh khác với cuộc sống của các đồng nghiệp.
Anh có thể ngày nào cũng đọc sách, cũng cầm bút nhưng ở những người khác còn
bao công việc đời thường bận mọn mà họ phải lo toan gánh vác. Đồng nghiệp của
anh, một năm, hai năm không có lấy một bài thơ in báo. Anh đừng nghĩ họ đã dứt
tình đoạn tuyệt với thơ. Anh đừng vội trách họ không tâm huyết. Biết đâu trong
cuộc sống xô bồ, sôi động của cơ chế thị trường, họ vẫn lo kiếm ăn, vẫn lặng lẽ
viết. Chỉ có điều họ không ồn ào, không cao giọng như anh.
II
Có một nhà thơ đã thành danh, anh ta
rất thích khen ngợi quá lời, đắp lụa cho người khác (nhất là các cây bút xuất
hiện sau mình). Bạn có một chùm thơ mới được in báo, gặp bạn, nhà thơ nọ liền
khen: "Trong hàng loạt loại thơ nhạt nhẽo vô vị hôm nay, lâu lắm mình mới
được đọc một chùm thơ hay đến thế. Có đổi mới, có tìm tòi, có giọng điệu riêng.
Theo mình, trong lứa làm thơ trẻ, ông là cây bút có hạng. Xin thành thật chúc mừng
ông". Nếu bạn là người nhẹ dạ cả tin, chắc bạn sẽ thấy lâng lâng sung sướng
vì lời khen ấy. Khốn nỗi, đó chỉ là lời khen có sẵn như đã thành khuôn được
tuôn ra đều đều trôi chảy. Những lời như thế, nhà thơ nọ đã từng nói với nhiều
người, chứ đâu chỉ dành riêng cho bạn. Đáng buồn hơn, chùm thơ của bạn, nhà thơ
nọ cũng chưa đọc. Anh ta chỉ lật qua trang báo, ấy thế mà gặp bạn, anh ta thản
nhiên khen ngợi, bốc đồng. Nếu bạn chuẩn bị in một tập thơ, bạn đến có nhời nhờ
nhà thơ nọ đề tựa, ắt hẳn anh ta sẽ vui vẻ nhận lời. Trời ơi, lời tựa đề của
nhà thơ lớp trước nói về nhà thơ lớp sau với âm vang thánh thót làm sao. Bạn được
khen bằng đủ những ngôn từ hoa mỹ.
Nếu thơ bạn trúc trắc không vần bạn sẽ
được khen rằng bạn luôn tự vượt lên mình, không chịu đi theo lối mòn có sẵn của
lớp người đi trước. Rằng thơ bạn cách tân hiện đại, ẩn sâu chìm khuất trong thơ
bạn là tiềm ẩn những vỉa ngầm ngôn ngữ. Còn nếu bạn viết thơ có vần, nhất là
thơ lục bát, bạn sẽ được khen rằng giao hòa, nhập cuộc với dòng chảy truyền thống.
Thơ bạn giàu nhịp điệu, mạnh về cảm xúc, cuốn hút người đọc. Ở thể lục bát, bạn
nhuần nhuyễn trong cách diễn đạt, nhịp nhàng trong vần điệu… Có nghĩa là lời đề
tựa sẽ thành một tấm áo mĩ miều mà nhà thơ nọ đã cố tình thêu dệt. Thú thật rằng
lời đề tựa nghe trơn tru, du dương quá, khiến người đọc dễ tính thì thấy tạm chấp
nhận được, còn người đọc kỹ tính thì thấy kệch cỡm, rẻ tiền.
Vì đã từng tán dương và làm bà đỡ cho
nhiều tập thơ nên lời đề tựa của tập thơ này nhiều khi trùng cả với những tập
thơ khác. Có trường hợp, lời khen của nhà thơ nọ với tác giả A cũng giống hệt
như lời khen với tác giả B. Viết lời đề tựa tập thơ này trùng với lời đề tựa tập
thơ khác, nhà thơ nọ xem chừng thiếu trách nhiệm với độc giả, với người nhờ đề
tựa và với cả chính mình.
Tại sao nhà thơ nọ lại thích khen ngợi
người khác, khen lấy được. Hay vì anh ta đã thành danh, có khen người này, người
kia, khen thế chứ khen nữa họ cũng chẳng vượt nổi mình. Hay vì anh ta muốn được
tiếng là chăm sóc tài năng, muốn làm bà đỡ những đứa con tinh thần, muốn được
các tác giả lớp sau coi mình như người mở đường, chỉ lối. Hay vì do tính tình vừa
kiêu ngạo vừa nhũn nhặn, anh ta muốn ban phát lời khen một cách dễ dãi, dư thừa.
Chỉ biết rằng những lời khen kia lúc đầu nghe còn thánh thót, nhưng càng về sau
xem ra càng nhàm chán, cũ mòn. Nhiều người đã biết tính nhà thơ nọ, khi được
khen cũng chỉ ậm ờ cho qua chuyện. Còn một độc giả như tôi khi đọc lời nhà thơ
nọ đề tựa trên một tập thơ mới nào đó thì cảm thấy buồn cười. Ôi những lời khen
giả, ngọt ngào, được tuôn ra đều đều như một cái khuôn đã có sẵn từ trước.
III
Một buổi sáng, tôi đang ngồi đọc báo
thì anh bạn nhà thơ mở cửa bước vào. Anh đưa cho tôi tờ tạp chí có in thơ của
các nhà thơ gồm nhiều thế hệ: "Ông đã đọc thơ ở số này chưa? Dở lắm. Thơ của
lớp trẻ thì sa vào những đề tài vụn vặt riêng tư. Còn lớp nhà thơ chống Mỹ, một
số người tên tuổi đã thành danh một thời, không hiểu sao thơ họ bây giờ cũ về đề
tài, cũ cả cách diễn đạt. Cứ cái đà này, không biết thơ ca nước mình sẽ đi về
đâu".
Tờ báo anh bạn đưa, tôi đã mua đã đọc,
đọc kỹ từng tác giả. Thực ra, thơ ở số báo này nói riêng và thơ hiện nay không
đến nỗi bi quan như anh đã nói. Biết tính anh hay chê bai, tôi hỏi anh cụ thể từng
tên bài, từng tác giả mà anh cho là dở. Anh trả lời ấp úng, chung chung, thiếu
chính xác… và cuối cùng anh đành thừa nhận rằng… mình chỉ liếc qua chứ chưa kịp
đọc. Trời ơi, chưa kịp đọc mà đã chê, mới liếc qua tên tác giả đã thấy thơ dở,
lạ thật.
Với anh, sự chê bai người khác đã
thành mốt, thành thói quen khó chữa. Thấy tác giả nọ in một tuyển thơ lục bát,
anh chê rằng làm thơ là ít chịu cách tân, đã bước sang thế kỷ 21 rồi, ai lại
còn ngồi nhâm nhi mấy vần cổ hủ. Đọc thơ lục bát bây giờ có khác gì đang phóng
xe giữa đại lộ bê tông cao tốc lại gặp vài khóm tre xanh hoặc mấy chú bò vàng
đang gặm cỏ. Thấy ai làm thơ tự do, anh chê họ không dư dật vần điệu hoặc cấu
trúc thơ còn lan man dàn trải, hoặc cảm xúc triền miên giống như cánh buồm lênh
đênh giữa đại dương không tìm thấy điểm dừng. Thấy một vài tác giả viết trường
ca, anh phán rằng thời buổi này của báo chí, truyền hình, của truyện cực ngắn,
truyện ngắn, ai hơi sức đâu mà đọc trường ca. Rằng sau chiến tranh, trường ca
được mùa, còn hiện nay người làm thơ phải biết chọn lựa khẩu vị thế nào cho
thích hợp với độc giả. Có nghĩa là các nhà thơ cần viết thơ ngắn, thơ phải có ý
tưởng sâu sắc, phải là mũi nhọn xung kích tiếp cận được với cuộc sống thường
ngày. Thấy giải thưởng cuộc thi ở các báo, giải thưởng hàng năm của Hội Nhà
văn, Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật… anh ta chê tuốt.
Anh nói rằng, văn chương cần đánh giá
cả một giai đoạn dài 10 năm, 20 năm chứ đâu chỉ nhìn vào một chặng đường ngắn
ngủi. Anh là người có chút tài rao giảng hùng biện. Bất cứ tác phẩm nào, tác giả
nào anh cũng tìm ra được cái khiếm khuyết để… chê. Anh chỉ nói khái quát, nói
chung chung chứ không hề đưa ra một dẫn chứng cụ thể nào. Thí dụ anh đang say
sưa chê một cuốn tiểu thuyết, chê về văn phong bút pháp, chê về cách tiếp cận đời
sống, tầm tư tưởng… Nếu hỏi anh tên một vài nhân vật trong cuốn tiểu thuyết là
gì, anh sẽ lúng túng, sẽ tảng lờ sang chuyện khác. Thí dụ anh đang hào hứng chê
một chùm thơ của tác giả trẻ, chê về cách nhìn, về cách sử dụng ngôn từ, về sự
luẩn quẩn trong vốn sống, cách khai thác đề tài… nếu hỏi anh về tên của bài
thơ, hoặc ý của một đoạn thơ mà anh cho là dở… chắc hẳn anh sẽ lúng túng như gà
mắc tóc. Tóm lại anh lại là người ít chịu đọc nhưng cứ chê bừa.
Chê người khác để tỏ ra mình từng trải về nghề nghiệp đã
thành… căn bệnh khó sửa của anh. Anh nói thao thao bất tuyệt trong quán bia,
quán nước. Thêm chút hơi men, lời chê của anh càng trở nên thống thiết, hùng hồn.
Đôi khi, có nơi nào đó mời anh đi nói chuyện thơ. Anh lại được dịp diễn giải về
những hạn chế, những khiếm khuyết, những điểm cần vươn lên của các nhà thơ
trong nền thơ đương đại.