Quãng thời gian đắm đuối với thơ của Trần Quốc Thực kéo dài
khoảng 40 năm, được chưng cất qua bốn tập thơ “Miền chờ”, “Nét khắc”, “Trái tim
hoa bìm” và “Tháp cúc”. Năm 2015, con gái của nhà thơ Trần Quốc Thực là Trần
Yến Châu đã chọn lọc và giới thiệu tuyển thơ Trần Quốc Thực có tên gọi “Cỏ
ướt”. Một tên gọi nghe như nước mắt sắp tuôn, rất phù hợp với phong cách nhà
thơ Trần Quốc Thực, dù góc nhìn xa “Sông Hồng nặng nhọc phù sa đỏ. Đôi bờ xanh
phiêu diêu”, dù tâm sự gần “Không đậu vào chén. Nắng đứng ngoài thềm. Mời đến
líu lưỡi. Nắng mới nghiêng nghiêng” hoặc dù đắm say bất chợt “Đêm không trọn
một bề. Mảnh trăng vàng thốt hiện. Cắm nghiêng nghiêng vào khuya”.
TRẦN QUỐC THỰC Ở
MIỀN CỎ ƯỚT
LÊ THIẾU NHƠN
Thoắt cái, nhà thơ Trần Quốc Thực đã từ giã cõi nhân gian
đúng 10 năm. Vừa bước qua tuổi 60, anh lặng lẽ chuồi vào hư vô như một thoảng
gió mong manh. Thật khó hình dung về nhà thơ Trần Quốc Thực, ngoài một dáng vóc
triền miên ốm o và một đôi mắt xoe tròn âu lo. Đã 10 năm, không có nhà thơ Trần
Quốc Thực ở chốn đua chen bận bịu nữa, mới thấy rằng tác phẩm của anh đã nối
dài thêm cho cuộc đời anh rất nhiều lần. Hôm nay, ngày mai và có thể còn rất
lâu nữa, công chúng vẫn nhắc đến thơ Trần Quốc Thực!
Nhà thơ Trần Quốc Thực từng trải qua nhiều công việc, từ
thanh niên xung phong phục vụ trong quân đội cho đến thợ chụp ảnh tại Phủ Lý,
rồi làm biên tập thơ báo Văn Nghệ. Nhà thơ Trần Quốc Thực từng trải qua hai đời
vợ, người vợ đầu là giáo viên Văn ở Hà Nam đã gồng gánh nồi niêu đưa chồng đi
học Trường viết văn Nguyễn Du, người vợ hai là một nhà thơ ở thủ đô đã nếm trải
cùng chồng không ít nhọc nhằn. Tuổi thơ mồ côi gian khó cộng với bao nhiêu
tháng ngày lầm lũi gian nan, thơ Trần Quốc Thực như những vệt sáng lóe qua số
phận anh và nâng đỡ cho số phận anh. Ba câu chuyện liên tục trở đi trở lại
trong thơ Trần Quốc Thực, đó là tri ân mẹ, tạ lỗi vợ và xa vắng con.
Thuở hai mươi, Trần Quốc Thực bắt đầu đến với thi ca. Những
câu thơ đầu tiên viết về người anh liệt sĩ: “Năm tháng bay trên nấm mộ xanh lơ.
Giọng lúa ngân nga bài ca năm tấn. Sông núi vang vang từng hồi trống trận. Từ
đất anh nằm quân đi quân đi” và tình yêu lứa đôi chan hòa trong tình yêu Tổ
quốc: “Khuôn mặt em đặt trên vai anh. Em yêu ơi, mình ở trong mình. Mình ở
trong bạn bè, mình ở trong đất nước. Nếu mai đây em có rời bờ vai anh để ngả
sang bờ vai khác. Anh chịu gánh một phần khoảng trời biếc không em”.
Tạng người của nhà thơ Trần Quốc Thực hầu như không có khả
năng chống đỡ bất kỳ sóng gió nào của thời cuộc. Từ bước chân đến tâm hồn của
Trần Quốc Thực đều chực nghiêng về đổ vỡ và đắng cay. Trần Quốc Thực tồn tại
bằng sự bơ vơ và sự cô độc. Anh chỉ có thể là anh, khi ngồi một mình để thả hồn
vào mông lung vô tận. Phải chăng đó là sự “Nhập định” mà anh luôn khao khát:
“Có thể ngồi trước tách trà, có thể trước cốc rượu. Dẫu sao, phải được ngồi
trước mình. Ngồi trước nỗi vắng xa trái tim ta tan nắng gió. Ngồi trước thời
gian nín thinh”. Và đó cũng là chốn riêng để Trần Quốc Thực tìm đến sáng tạo
đau đớn và xót xa: “Tôi ngồi trước nến, như đối diện một chân kinh”.
Quãng thời gian đắm đuối với thơ của Trần Quốc Thực kéo dài
khoảng 40 năm, được chưng cất qua bốn tập thơ “Miền chờ”, “Nét khắc”, “Trái tim
hoa bìm” và “Tháp cúc”. Năm 2015, con gái của nhà thơ Trần Quốc Thực là Trần
Yến Châu đã chọn lọc và giới thiệu tuyển thơ Trần Quốc Thực có tên gọi “Cỏ
ướt”. Một tên gọi nghe như nước mắt sắp tuôn, rất phù hợp với phong cách nhà
thơ Trần Quốc Thực, dù góc nhìn xa “Sông Hồng nặng nhọc phù sa đỏ. Đôi bờ xanh
phiêu diêu”, dù tâm sự gần “Không đậu vào chén. Nắng đứng ngoài thềm. Mời đến
líu lưỡi. Nắng mới nghiêng nghiêng” hoặc dù đắm say bất chợt “Đêm không trọn
một bề. Mảnh trăng vàng thốt hiện. Cắm nghiêng nghiêng vào khuya”.
Hình ảnh người mẹ tảo tần vùng chiêm trũng trở thành nguồn
cảm hứng lớn lao nhất trong thơ Trần Quốc Thực. Người mẹ ấy bôn ba trong đời
sống vật chất: “Mẹ ơi, áo mẹ mười năm nắng. Tóc mẹ phơ phơ dáng lặng thầm. Mẹ
ơi tay mẹ mười năm trắng. Chân mẹ mười năm mưa nắng ngâm” và bôn ba cả trong
đời sống tinh thần: “Mẹ tháng ngày chăm ba bát nhang. Bát thứ nhất: mẹ thờ Trời
Đất. Bát thứ hai: gia tiên nhà chồng. Bát thứ ba: bố và anh con…. Người đã
khuất trở về thơm ngát. Trên bát nhang tháng ngày mẹ thắp. Vùng hương, từ tay
mẹ gầy gùa. Dâng dâng như rút tự nắng mưa. Sương gió một triền sông hun hút”
Trước tình mẹ rộng lớn, một nhà thơ như Trần Quốc Thực không
biết cách gì báo hiếu. Vì vậy, tiếng gọi mẹ ơi cứ ngân dằng dặc và khắc khoải
trong thơ anh: “Mẹ ơi. Khi con viết được câu thơ thứ nhất dâng mẹ. Mẹ nói:
không nuôi nổi người. Khi con viết được câu thơ thứ hai dâng mẹ. Mẹ nói: túp
lều này, mẹ con mình thôi. Khi con viết được câu thơ thứ ba thì mẹ lẫn… Mẹ ơi.
Khi con dắt mẹ đi trong thị xã. Mẹ không đi bằng bàn tay con, mẹ đi bằng ký ức
của mẹ. Mẹ đi bằng thời gian xa, ra triền sông phơi phấn. Mẹ đi bằng thời gian
gần, lên đầu dốc ngóng con. Bây giờ, chiến tranh kết thúc đã lâu. Con chưa kịp
về chăm nom mẹ. Mẹ đã như người trong mê sâu…”. Nhớ đến mẹ, nghĩ về mẹ, nỗi
lòng Trần Quốc Thực gửi vào lời nguyện cầu: “Chắp tay ta vái mười phương chư
Phật. Ban xuống mẹ hiền một chút thong dong”.
Mẹ đã mất, khoảng trống không thể nào bù đắp được. Thế
nhưng, Trần Quốc Thực vẫn tin rằng mình có thể giao tiếp với mẹ bằng “Thần cảm”
đích thực: “Mẹ ơi, âm dương cũng nhà ta. Ai làm mẹ đau, con từ mặt. Mẹ ơi âm
dương không chia xa. Thỉnh thoảng mẹ về, con đỡ khuyết…”. Đối với Trần Quốc
Thực, miền thơ cho mẹ vẫn còn mãi, vì những ngày nằm bên mẹ như nằm bên sông
lành, và vì ân hận chỉ tắm được cho mẹ hai lần, một lần vào ngày mẹ qua đời và
một lần vào ngày cải táng mẹ: “Mẹ tắm cho ta bao nhiêu lần mà ta chỉ được hai
lần tắm mẹ. Một lần đưa mẹ về với lúa. Lần sau rước mẹ sang nhà mới. Nỗi nhớ
này niềm sông này duy nhất trong một đời người”.
Sự day dứt thứ hai trong thơ Trần Quốc Thực là bóng dáng
người đàn bà âm thầm gánh vác: “Anh đến được em rồi. Mệt quá! Và anh nằm như
một đứa trẻ con. Chân tay anh khuềnh khoàng. Trong veo khuôn mặt”. Trần Quốc
Thực yêu kiểu thi sĩ, vừa yếu đuối vừa bi lụy, từ cảnh vật lúc yêu: “Chúng mình
hay xa nhau. Đến mức. Khi thương. Anh thiếu vạt áo em để cầm. Khi nhớ. Em thiếu
miền ngực anh để khóc. Em đi, sương nắng khuất. Những đồi hoa in gót chân xa”
đến trạng thái khi yêu: “Chúng ta đi bên nhau líu ríu. Như đôi chim đất đi
trong đường hoa mùa đông. Đi bình tĩnh, tự tin, không hề biết. Máu đỏ quật lên
tim làm bạc xóa tóc anh…”.
Yêu kiểu thi sĩ, thì tình nhân trước mặt cũng khó giữ như
trăng nước khơi xa. Giữa phút giây mặn nồng thì Trần Quốc Thực đã cảm nhận được
“Em ngồi đó tôi ngồi đây. Giữa hai ta một quãng đầy cách nhau. Giữa hai ta
khoảng trời cao. Một hôm nở đóa chiêm bao giữa chừng” nên sự chia lìa được nhận
diện đúng ám ảnh của ảo giác: “Em xa quá… xa đến mức ngày trời xanh lại. Dãy
phố dài mảnh khảnh cuối trời. Dưới hàng cây cơm nguội. Một người xe thong thả
đạp trong cây”.
Yêu kiểu thi sĩ, thì cuối cùng Trần Quốc Thực chỉ còn lại
ngậm ngùi lẻ loi: “Em vắng trọn ngày không gặp mặt. Đường hoang vắng nắng vườn
không hoa. Mắt vắng nỗi chi đêm vắng khép. Nằm vẽ lên màn dáng vắng xa”. Bốn
câu thơ trên nửa thực nửa hư, đi từ thực đến hư, rồi từ hư đến thực. Và nhà thơ
Trần Quốc Thực chấp nhận sự an bài lạnh lẽo ấy như một lẽ cơ cầu: “Anh ngồi
trong đủ một ngày. Ngắm đất ngắm trời ngắm cây ngắm cỏ. Cây cỏ thì xanh, đất
bãi thì nâu. Bầu trời thì xa, em còn xa nữa. Ước gì đang đứng giữa sân nhà mình.
Ước gì đang ngồi bên chiếc bàn thân thuộc. Ước gì được soi mắt em đang buồn. Ước
gì được cầm bày tay em đang hao mòn…”
Chủ đề thứ ba gây xúc động mạnh mẽ trong thơ Trần Quốc Thực
là câu chuyện đứa con sau khi bố mẹ đường ai nấy đi: “Con sinh phải cái thời mà
các bậc bố mẹ rất hay chia tay nhau. Rồi thời gian sẽ nhuốm lên khuôn mặt con
vẻ thất thoát, nét u buồn”. Trần Quốc Thực thừa hiểu mình không đủ khả năng
chăm sóc con, nhưng vẫn bồn chồn viết cho con trong đêm chợt thức: “Mùa xuân
đến cho con thêm tuổi. Bao nhiêu chiêm bao về thăm con. Có chiêm bao nào mang
bố?”.
Nhà thơ Trần Quốc Thực dư thừa sự nhạy cảm, chỉ cần anh viết
lại giấc mơ của mình về con đã thành bài thơ “Bố ơi! Gì thế con? Đêm qua bà nội
về chơi với con. Bà có dặn gì con không? Có! Bà bảo: Buổi sáng phải thơm bố…
Con gái ơi! Tỉnh dậy, chiếc hôn của con. Còn ướt một bên gối bố”. Thế nhưng,
với bài thơ “Sân trường nghiêng” thì Trần Quốc Thực bằng những rung động sâu xa
đã khái quát được tình yêu người cha với đứa con thơ dại mà mình ít có dịp được
gần gũi: “Con ơi, bố biết mọi cuộc chia tay Trời đều định trước. Bố tự nguyện
lùi rất xa để mẹ được toàn quyền về con. Bố lặng lẽ đến trường con học để được
nhìn con từ rất xa. Nhìn con rất gần rồi bố gọi. Con ào đến bố một lúc rồi chạy
ra chơi với bạn bè. Con chơi với sân trường. Cái sân trường cứ nghiêng nghiêng
thế nào ấy trong mắt bố. Sân trường cứ nghiêng nghiêng mà bố không dám hỏi vì
sao...”.
Cái hay của thơ Trần Quốc Thực là nhìn toàn bộ sự vật bằng
cảm giác, rồi dùng hình ảnh để thi vị hóa cảm giác ấy. Chẳng hạn, một lần
“Tiễn” ấm áp tình nghĩa: “Bạn đi nhé, thôi không tiễn nữa. Một tay nâng chén
đắng ngang mày. Bạn đi nhé, thôi không giấu nữa. Một tay còn bận giấu khăn tay…
Tiễn nhau một bận qua bận cửa. Tiễn nhau lần nữa trong chiêm bao. Xa ngoắc ngõ
xanh bạn biến khuất. Tôi đã gói khăn ở kiếp nào”, hoặc một lần “Đề sau bức ảnh”
ngẫu hứng dạt dào: “Nhờ gió mà đường cong áo em đã khiến anh thật lòng thán
phục. Nhờ gió mà trời xanh hoàn thành xuất sắc công việc tạo em trước trùng
khơi. Nhờ gió mà năm châu được chiêm ngưỡng sắc đẹp người con gái Việt. Anh
phải kết thân với biển vì biển luôn cất tiếng gọi em. Kết thân với trời xanh vì
trời xanh đã ghi khắc em. Và anh phải đứng giữa sóng và cát. Để ngăn ngừa sự
giành giật nhau những dấu chân em”.
Sài Gòn, 2-2017