Ngày nay đến thăm lại ngõ Hàng Hành, tôi chỉ tìm thấy một
vài căn nhà cũ nát với một số ít bà con quen biết là dân gốc Nhị Khê hay dân
làng Chắm ngày xưa. Lớp dân Hàng Hành cũ tuổi cao đã về chầu Trời gần hết, lớp
trẻ mới lớn lên thì không biết mình là ai… Thậm chí khi nghe tôi cất giọng nói
với chất giọng đặc sệt Hà Nội ngàn năm văn vật cũ, nhiều cô cậu là cư dân mới của
Hàng Hành còn điềm nhiên hỏi: Bác ở “lước lào” về chơi mà “lói” tiếng Việt
chẳng giống dân “Hà Lội” tí “lào”?!
Loanh quanh thương nhớ Ngõ Hàng Hành
ĐINH KỲ THANH
Trước hết phải xin
thưa ngay với độc giả rằng tôi không hề được sinh ra tại con ngõ nhỏ Hàng Hành
mà ngày nay nổi tiếng là … phố cà phê, phố điểm tâm, phố chơi đêm, phố sinh
viên hay phố Tây…như bà con Hà thành thường nói vậy mỗi khi nhắc tới nó. Cái
đáng kiêu hãnh nhất cho tôi là tuy sinh ra ở thành phố Nam Định vào nửa đầu thế
kỷ XX, song hầu như toàn bộ thời thơ ấu cũng như thời thanh niên học sinh, sinh
viên của tôi đã gắn chặt với ngôi nhà số 6 ngõ Hàng Hành Hà Nội. Vâng, tôi đã cư ngụ tại số nhà nói trên của
ông ngoại tôi từ năm tôi 2 tuổi cho tới lúc tôi đã 37 tuổi đời.
Không biết trước
năm 1940 con ngõ nhỏ Hàng Hành có diện mạo ra sao chứ khi tôi tới cư ngụ thì nó
khác xa bây giờ. Hàng Hành thuở ấy là một cái ngõ ngoằn nghèo với rãnh nước
thải lộ thiên hôi thối và các căn nhà thì thấp bé, cái thòi ra, cái thụt vào
hết sức lộn xộn. Từ đường phố Lương Văn Can đi vào ngõ Hàng Hành là một con
đường trải đá răm lồi lõm. Phía bên tay trái là các ngôi nhà xây nhô ra thụt
vào như đã kể trên, còn phía bên tay phải là một dãy nhà to lớn hơn và và tương
đối thẳng hàng. Dãy nhà này phần lớn là các nhà xưởng, cái làm xưởng tiện gỗ,
cái làm xưởng dệt, may, cái lại là xưởng khâu giày vải, giày da và dép săng đan
các loại. Ngay ngôi nhà số 6 tôi ở cũng chỉ là một xưởng tiện gỗ với khoảng 8
bàn tiện đạp chân suốt ngày xoèn xoẹt tung ra đầy sàn nhà các phoi tiện gỗ sáng
trắng và ẩm ướt. Điều đáng nhớ nhất ở dãy nhà bên phải này là muốn vào nhà ở
hay vào các xưởng người ta đều phải bước lên những tấm ván gỗ dày bắc qua chiếc
cống lộ thiên đen kịt và hôi hám nói trên mới vào tới các bậc thềm gạch xây hay
đất nện…rất đơn sơ. Hàng Hành lúc tôi về ở là một con ngõ cụt, không thông được
với ngõ Bảo Khánh, là nơi sinh sống và làm ăn của người lao động nghèo, phần đông
từ làng quê Nhị Khê ( Thường Tín – Hà Đông) kéo ra làm nghề tiện gỗ. Còn ở cuối
ngõ là một số hộ khác làm nghề khâu may giày dép da từ hai làng Chắm trên và Chắm
dưới thuộc tỉnh Hải Dương kéo ra. Cuối ngõ, chỗ quán cà phê Nhân nổi tiếng bây
giờ, là một ngôi nhà 4 gian nhỏ bé có vườn rau, giếng nước y xì cảnh làng
quê…Giếng nước này hầu như được dùng để cấp nước cho cả xóm giày da cuối ngõ.
Còn vườn rau thì được rào sơ sài bằng các thanh tre nứa thấp tè. Lũ trẻ chúng
tôi muốn qua ngõ Bảo Khánh chơi thường lén chui rào hoặc nhảy đại qua hàng rào
lúc chủ nhà không để ý là xong.
Cũng cần nói thêm
rằng hầu như 80% dân ngõ là người làng Nhị Khê quê ngoại của tôi, nên các hộ đã
hùn tiền xây cất một ngôi đình đồ sộ ngay đầu ngõ, nơi số nhà 11 bây giờ. Đình
Hàng Hành to lớn bao nhiêu thì Phả Trúc Lâm (số nhà 40 ngày nay) nơi thờ ông tổ
nghề giày da của dân khâu giày hai làng Chắm Hải Dương càng nhỏ bé và khiêm tốn
hơn, tương xứng với vị thế của những người đến ở sau…Nay vật đổi sao dời, đình
Hàng Hành bị chiếm làm nhà ở, nhiều người không thấy đình, chỉ thấy Phả Trúc
Lâm nên ngộ nhận đó là đình Hàng Hành, các sách báo cũng ghi nhận vậy, thật là
đáng tiếc!
Lại nói về nguồn
gốc cái tên ngõ Hàng Hành. Đây cũng là ngõ duy nhất ở Hà Nội không đi kèm với
phố. Theo sự giải thích của ông ngoại tôi, một nhà nho cháu nội đời thứ 14 của
cụ Tổ Nguyễn Trãi, sở dĩ ngõ có tên Hàng Hành là bởi ngày xưa sông Tô Lịch chảy
theo tuyến đường Hàng Cân, Lương Văn Can…đổ vào hồ Hoàn Kiếm đã tạo nên một dãy
bến cho bà con các làng rau ra bóc vỏ, rửa hành, “làm hàng” cho ngon mắt trước
khi gánh hàng vào chợ huyện Thọ Xương ( nơi có Nhà Thờ lớn Hà Nội bây giờ) với
lối đi băng ngang phường Bảo Khánh rồi qua cả phường Hàng Trống nữa…Cũng theo
ông ngoại tôi kể, xưa thành Thăng Long có rất nhiều dân tứ xứ tụ hội về làm ăn
nên họ lập ra các Phường như Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Bạc, Hàng Thiếc, Hàng
Đường, Hàng Đào, Hàng Đồng, Hàng Mắm, Hàng Chĩnh, Hàng Mây, Hàng Mã…Các Phường
đếu có vòng rào vây quanh nhằm bảo vệ an ninh. Họ chỉ để một ngõ để ra vào và
đầu ngõ ghi rõ tên Phường làm mặt hàng gì, bán mặt hàng gì cho người tiêu thụ
biết. Vậy là các ngõ ra đời trước các Phố. Hàng Hành là ngõ duy nhất ở Hà Nội
không có phố vì nó ở sau lưng phố Hàng Gai và phía trước mặt lại có Hồ Hoàn
Kiếm chắn ngang không thể nào mở thêm phố được…Thời Pháp thuộc ngõ này còn có
dòng tên Tây trưng trên bảng nhỏ gắn ngay đầu ngõ : Ruelle des Oignons !
Dân Hàng Hành hầu
như chỉ toàn thợ tiện gỗ. Nhà nào cũng có các bàn tiện đạp chân. Với bàn tay
tài khéo và óc thẩm mỹ tinh tế người thợ đưa lưỡi dao tiện bén ngọt lướt trên
các khoanh gỗ xù xì và tạo nên các vật dụng quý phục vụ đời sống người dân Hà
thành khi đó. Những năm tuổi trẻ tôi đã chứng kiến hàng ngày những ông chú bà
cô, người anh hoặc chị họ ngồi lên bàn tiện và làm ra những quân cờ, mâm gỗ,
bát gỗ, các con tiện cầu thang, những đồ thờ cúng như bát nhang, lư gỗ, chân
đèn chân nến…Hàng tiện gỗ của họ được bán dưới dạng mộc để rồi sau đó dân
phường khác lo sơn son thếp vàng hoặc nhuộm phẩm màu nhìn thật mát mắt…Sản phẩm
gỗ tiện của dân ngõ Hàng Hành nổi tiếng và được thương lái mua từng lô mang đi
khắp đất nước thậm chí bán ra các nước gần xa. Còn như ở cuối ngõ, các xưởng
giày dép da nhỏ bé của các gia đình đều là nơi làm ra các loại giày dép da
thượng hạng của Hà Nội. Muốn đóng giày dép da các nhà thường phải có các sân
sau làm chỗ thuộc da, nhuộm màu từng “con da” sau đó mới tới khâu pha lọc con
da để phân loại dành khâu giày hay dép…Những người thợ đóng giày hồi đó thường
áp các miếng da lên cái phom gỗ hình bàn chân người để rồi dùng búa gỗ nện để
căng kéo miếng da theo ý mình. Khi đạt được dáng hình như ý, họ dùng đinh đóng
các mép da vào phom tạo nên chiếc giày mình định đóng. Dưới bàn tay tài khéo
của họ những đôi “giày Tây” cao cổ hoặc thấp cổ, những đôi giày Gia Định đen
bóng, những đôi săng-đan dành cho tuổi học trò… đã ra lò và đàng hoàng xuất
hiện trên giá gỗ trong tủ kiếng trưng đồ của các tiệm bán giày ở các phố Hàng
Da, phố Hà Trung hay Hàng Bông và Hàng Giày, Hàng Giấy cũng như tại các sạp
hàng to lớn trong chợ Đồng Xuân…
Là dân lao động,
bà con sống với nhau như một gia đình lớn. Phần lớn dân ngõ đều có họ với nhau
hoặc gần hoặc xa. Khi nghề tiện phát triển mạnh một số dân Nhị Khê lại kéo qua
phố Hàng Gai hay ngõ Tố Tịch ( còn có tên là ngõ bắt đái, vì cảnh sát Pháp
thường rình bắt được nhiều người đi chơi quanh hồ Hoàn Kiếm về tới đây mắc tiểu
phải lo dốc bầu tâm sự nơi góc khuất! ) mở các tiệm bán đồ thờ bằng gỗ hoặc
khắc dấu gỗ …
Cũng tại ngõ Hàng
Hành, có ngôi nhà số 5 cổ kính và thấp bé là nơi cư ngụ của ông Khuyến thợ mộc,
người đã chỉ huy tốp thợ dựng lễ đài Ba Đình cấp tốc kịp đón Cụ Hồ và Chính phủ
cách mạng lâm thời ra mắt quốc dân và công bố bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ vào
ngày 02-9-1945. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ đội tự vệ chiến đấu của ngõ
Hàng Hàng cũng đã giao chiến nhiều trận rất oai hùng bất chấp quân Pháp được
trang bị đầy đủ và được rèn kỹ thuật tác chiến rất bài bản. Lúc Hà Nội bị Pháp
trở lại chiếm đóng, các thanh niên yêu nước của Hàng Hành vẫn tiếp tục hoạt
động bí mật chống quân xâm lược. Họ thường tổ chức rải truyền đơn kêu gọi bà
con ủng hộ cách mạng với cả tinh thần và vật chất…Những ngày kỷ niệm lớn của
cách mạng dân tộc, thanh niên tiền phong của Ngõ Hàng Hành còn tổ chức treo cờ
đỏ sao vàng ngay trên nóc Tháp Rùa của Hồ Gươm nhằm cổ xúy tinh thần yêu nước
của đồng bào và thách thức lũ thực dân xâm lược và tay sai…Qua các vụ treo cờ
này người dân Hàng Hành càng thêm yêu quý những anh Tự vệ Thành nửa đêm bơi ra
Tháp Rùa treo cờ cách mạng như Tư Bủng (thợ may) và anh Ất ( thợ tiện)...
Sau ngày kháng
chiến thắng lợi, quân ta “trùng trùng say trong câu hát” rầm rập kéo về Thủ đô,
những gia đình giàu có của Hàng Hành cũng đã đi Nam, bỏ lại những nhà xưởng
trống hoác vô chủ hoặc những căn nhà ở to lớn không người quản lý. Thế là các
căn nhà đó biến thành các khu nhà ở tập thể cho những hộ dân Hà Nội mới kéo về
cư ngụ. Thôi thì đủ mọi thứ dân tứ xứ kéo về. Các căn nhà lớn nhất hẻm đều có
tên gọi mới : khu tập thể Bộ Công An; khu tập thể Bộ Nông trường; khu tập thể
Bộ Lâm nghiệp…Ngõ Hành Hành yêu quý của tôi chỉ còn là một xóm dân công chức
mới ở lẫn với dân lao động nghèo không có điều kiện hoặc không muốn di cư vào
Nam theo các ông bà chủ rủ rê. Ngõ Hàng Hành đã lột xác hẳn thành khu nhà của
cán bộ hay viên chức chung sống với các hộ sản xuất thủ công chuyên tiện gỗ và
khâu giày da truyền thống…
Khi đất nước bắt
đầu đổi mới, với vị thế sát gần hồ Hoàn Kiếm, trung tâm của khu phố cổ Hà Nội,
Hàng Hành lại một lần nữa vặn mình chuyển đổi theo cơ chế thị trường. Những
ngôi nhà nhỏ cũng lên giá vùn vụt theo các cơn sốt đất. Hàng Hành có lúc treo
giá đất tới mức trên 40 lượng vàng cho 1 mét vuông. Và thế là các hộ dân ở cũ
lại ra đi nhường lại cho các ông bà chủ mới tới đập bỏ nhà đặng xây cất nên
biết bao ngôi nhà hiện đại cao ngất dùng làm mini hotel, quán bar hay Restaurant,
các văn phòng dịch vụ du lịch, các quán cafeteria hay các quán điểm tâm buổi
sáng, các galeries bán tranh, tượng hoặc các đồ lưu niệm cho du khách… Các dân
thủ đô mới thấy Hàng Hành nay đã biến thành phố dịch vụ du lịch…dập dìu du
khách nước ngòai lui tới với đám sinh viên Việt tập làm hướng dẫn viên du lịch
hoặc tập giao tiếp bằng ngoại ngữ với du khách nước ngoài liền phong cho ngõ
nhiều cái tên mới: Phố Tây, phố sinh viên, phố điểm tâm, phố cà phê internet,
phố chơi đêm…khác hẳn cái ngõ xóm dân lao động ngày nào.
Ngày nay đến thăm
lại ngõ Hàng Hành, tôi chỉ tìm thấy một vài căn nhà cũ nát với một số ít bà con
quen biết là dân gốc Nhị Khê hay dân làng Chắm ngày xưa. Lớp dân Hàng Hành cũ
tuổi cao đã về chầu Trời gần hết, lớp trẻ mới lớn lên thì không biết mình là
ai…Thậm chí khi nghe tôi cất giọng nói với chất giọng đặc sệt Hà Nội ngàn năm
văn vật cũ, nhiều cô cậu là cư dân mới của Hàng Hành còn điềm nhiên hỏi: Bác ở
“lước lào” về chơi mà “lói” tiếng Việt chẳng giống dân “Hà Lội” tí “lào”?!
Tôi cũng nghe một
cậu sinh viên làm thêm giờ ở một restaurant bên số lẻ của ngõ Hàng Hành trả lời
câu hỏi của con gái tôi khi nhìn thấy trên quầy rượu một đĩa trang trí lớn xanh
rờn mạ non:
-
Đĩa này trồng
thứ cỏ gì mà đẹp thế anh ?
Cậu này nhanh nhẩu
đáp :
-
Chị ơi, không
phải cỏ đâu, tất cả đều “nà ná núa non” đấy mà!
Ôi , ngõ Hàng Hành
yêu quý của tôi, còn đâu nữa cái xóm thợ tiện và xóm đóng giày “Giời quên” ngày
trước! Phải chăng cuộc đời nay đã đổi thay và cơ chế thị trường đã cuốn phăng
đi tất cả để con ngõ nhỏ hiền lành của tuổi thơ tôi đang “Tây hóa” mỗi ngày một
nhanh hơn, ngày một hiện đại hơn song cũng mất gốc luôn!
Viết tới đây tôi
cũng thấy giật mình tự hỏi: Phải chăng mình đã quá lạc hậu, quá già và trở
thành kẻ lẩn thẩn khi bần thần ngồi nhìn, không muốn ăn tô bún thang Hàng Hành
đầy tú hụ mà không có mùi dầu cà cuống và trên mặt tô còn bị cô chủ quán phũ
phàng đặt lên cả một tảng thịt gà với nguyên chiếc phao câu vàng hươm rất vô lý
và trơ trẽn…./.