Đôi lời của nhà văn Tô
Hoàng: CHLB Nam Tư trong ký ức của ngay cả những
bậc U.70, U.80 chúng tôi cũng là điều gì rất mù mờ. Xa xưa, nghe nói là một
thành viên trong Cộng đồng XHCN. Bỗng trở thành tấm gương xấu của “những kẻ xét
lại hiện đại”. Rồi lại được bắt tay tung hô vì là thành viên sáng lập của “
Phong trào không liên kết”... Không phe
cánh. Tự tìm được con đường riêng đưa đất nước phú cường, người dân no đủ, hạnh
phúc một thuở. Và bỗng dưng lại rơi vào
những toan tính của “Các Ông Lớn” để xứ sở chia năm sẻ bẩy, anh em xóm giềng bắn giết lẫn nhau… Tìm được trên
báo “ Nhân chứng & Sự kiện” ( Nga ) mấy bài , gom lại dịch để mọi người đọc
và suy ngẫm.
CÂU CHUYỆN NAM TƯ
Kỳ 1: LÀM SAO THOÁT KHỎI
THÂN PHẬN MỘT NƯỚC NHỎ?
TÔ HOÀNG
LẬT GIỞ VÀI TRANG QUÁ KHỨ
Vào tháng Tám năm 1949 Moskva loại trừ
Nam Tư ra khói đội ngũ các nước là đồng
minh của Liên Xô. Chính các mối quan hệ phức tạp giữa Liên Xô và Nam Tư trong
những năm sau chiến tranh 1941-1945 đã giải thích mối mâu thuẫn của hai con người
hết sức khác nhau: Stalin và Tito. Trên thực tế là như vậy, nhưng mâu thuẫn giữa
hai con người này còn có gốc rễ sân sắc hơn nhiều..
Nếu
các nươc khác trong phe XHCN ở Đông Âu được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của
phát xít Đức bởi Quân đội Xô Viết thì Nam Tư, tuy phía Liên xô trợ giúp về nhiều
phương diện-vẫn được xem như tự giải phóng. Cần nói thêm, lực lượng tham gia việc
giải phóng này chủ yếu là đội quân du kích dưới sự chỉ huy của Tito. Những nhóm
du kích ấy vào thời kỳ cuối những cuộc chiến tranh đã thực sự trở thành một đạo
quân chính quy. Hãy nhớ lại tham gia việc giải phóng thủ đô Belgrad bên cạnh những
trung đoàn, sư đoàn Hồng quân có tới 8 sư đoàn thuộc Lực lượng quân đội giải
phóng nhân dân Nam Tư. Và những đạo quân này là con đẻ của Ioxip Broz Tito.
Còn
ở những năm tháng xa hơn nữa, tham gia chiến đấu với phát xít Đức còn có những
người lính của tướng Mikhailovst với sự ủng hộ của chính phủ Nam tư tại London.
Nhưng ảnh hưởng của phong trào này dần dần bị Stalin và Tito xóa bỏ để thành số
O. Ngay từ năm 1942 Moskva đã gọi tướng Mikhailovst là “ kẻ hợp tác với địch”
mà tiến hành thương lượng với viên tướng này là “điều không bao giờ”. Sau này thủ
tướng Anh Winston Churchill gắng gỏi để “ những người Anh gốc Nam Tư “ cùng với
quân đội của Tito tham gia vào việc thành lập chính phủ Nam Tư sau chiến tranh,
nhưng đề nghị này bị Stalin gạt phăng.
Như
vậy, có thể coi Tito, Nam Tư có một vị trí khá nặng đồng cân đồng lạng trên thế
giới sau Thế chiến 2. Stalin ủng hộ điều này còn Phương Tây thì không tán
thành. Tito cảm nhận một cách sâu sắc việc cần phải khẳng định Nam Tư là 1 thực
thể độc lập. Tito luôn nêu ra thắc mắc tại sao Pháp kháng cự với phát xít Đức một
cách yếu ớt lại được xem là một trong những kẻ chiến thắng chính; còn Nam Tư chống
Đức mạnh mẽ, nhiều thành quả như vậy lại không được coi là một nước độc lập,
thuộc phe chiến thắng. Nói một cách khác, cái nhìn riêng của Tito về quốc gia
Nam Tư không xuất phát từ “ sự ương bướng” của riêng ông ta.Phía sau ông ta là
cả một xứ sở đã được giải phóng và có quyền là một quốc gia độc lập. Và đây là
một nhân tố không kém phần quan trọng trong cách xem xét vấn đề Nam Tư.
Phương
Tây, với nỗi lực trước đây “ thu gọn lại” vai trò của những người du kích Nam
Tư và những đóng góp của Nam Tư trong việc làm thất bại chủ nghĩa phát xít, nay
tìm cách im lặng. Trong khi đó thì Moskva đề cao chiến công của đạo quân du
kích Nam Tư, đề cao vai trò của Tito với dụng ý lập một Liên bang xã hội chủ
nghĩa tại vùng Ban căng do Moskva chỉ huy. Người Nam Tư “sẽ tự điều hành xứ sở
theo quan điểm của Moskva”. Nước “ dân chủ nhân dân” Nam Tư theo đường lối “
chuyên chính vô sản”, còn các Hội đồng nhân dân giải phóng Nam Tư thì sẽ cóp y
nguyên các hội đồng Xô Viêt bên Nga. Góp yếu tố rất quan trọng là việc Tito khước
từ kế hoạch Marsal đối với Nam Tư và sau đó lớn tiếng phê phán học thuyết
Truman.Kết quả là Liên xô trợ giúp mạnh mẽ cho Nam Tư về kinh tế và quân sự; và
từ Nam Tư nhiều chuyên gia khác nhau –trước hết là các chuyên viên quân sự kéo
sang Moskva để học hỏi những gì Moskva đang làm.
Mối
quan hệ cá nhân thân tình giữa Stalin và Tito sau này được thay thế bằng lòng
căm ghét lẫn nhau. Nhưng sau chiến tranh Thế giới 2 thì quan hệ ấy thật tuyệt vời.
Vào tháng 12 năm 1947, báo “ Sự thật” cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Liên
Xô đã ngợi ca sự phát triển về phương diện chính trị và kinh tế tại Nam tư là “
chưa từng có”.
Và
vào một năm trước khi bài báo kể trên xuất hiện, trong một chuyến thăm của Đoàn
đại biểu Nam Tư tới Moskva, sau khi các cuộc thương thảo đã hoàn tất,mọi người
đáp xe tới ngôi nhà nghỉ của Stalin ở Cuisevo để được thưởng thức những món ăn
ngon và thứ rượu vang nổi tiêng của xứ Grudi, trong cơn cao hứng Stalin đã
khoác vai Titô hùng hồn tuyên bố trước tất cả mọi người: “ Hãy bảo trọng đấy ! Tôi sẽ không còn sống được
lâu đâu. Đó là quy luật của thời gian. Và anh sẽ còn lại với châu Âu”. Mọi người
ngồi quanh bàn tiệc đã sững sờ đến lặng ngắt vì lời tuyên bô đó. Vị lãnh tụ tối
cao của giai cấp vô sản vào thời điểm đó đã chỉ đích danh người kế nhiệm mình,
không phải dành cho Liên Xô mà là cho toàn bộ phong trào cộng sản thế giới. Hiển
nhiên vào thời điểm đó khi Stalin nói tới 2 chữ “ châu Âu ” là nói tới toàn bộ
thế giới cộng sản.
Thật
khó mà đoán định số phận nhân loại sẽ ra sao nếu Tito là người kế nhiệm của
Stalin trong phong trào cộng sản quốc tế. Xét theo tính cách vừa cương quyết, vừa
nhẹ dạ của Tito khi loại bỏ những đồng chí, đồng đội của mình thì hai thủ lĩnh
này về nhiều phương diện khá giống nhau. Không loại trừ giả thuyết chính vì điểm
này mà “Ông già Stalin” tín nhiệm Tito.
Một
thời gian khá dài Stalin ủng hộ Tito cả ở những điều mà Stalin không muốn, bởi
lẽ ủng hộ những yêu sách của Nam Tư tự nhiên sẽ dẫn tới việc làm sâu sắc thêm
mâu thuẫn đối với phương Tây. Ví như Tito khăng khăng khẳng định những lãnh thổ
của các nước khác được quân đội Nam Tư giải phóng trong chiến tranh nhất thiết
phải ở dưới quyền kiểm soát của ông ta. Ví như một phần lãnh thổ của nước Áo mà
Mỹ và Anh đòi thuộc về họ.
Tito
cương quyết đòi cho bằng được những yêu sách của mình. Bế tắc là điều hiển nhiên. Nhưng Stalin không
chiềng mặt với Đồng minh hay với Tito mà tìm ra lối giải quyết khác: Stalin nhường
cho Nam Tư phần đất mà quân đội Xô Viết đã giải phóng. Và thế là Tito hài lòng.
Sự
việc phức tạp hơn với những vùng đất, vùng bờ biển trước chiến tranh thuộc
Italy. Tito tuyên bố một cách cứng rắn rằng: “..quân đội Nam Tư với tư cach là
một trong những lực lượng của quân đội phe
Đồng minh có quyền bình đẳng với các đạo quân giải phóng khác ở lại trên
những vùng lãnh thổ họ đã từng đổ xương máu trong cuộc chiến khốc liệt chống kẻ
thù chung”. Với quan điểm ấy mọi việc càng trở nên nghiêm trọng hơn. Washington
và London có ý định dùng sức mạnh giành
lại những vùng đất quân đội Nam Tư đang chiếm đóng. Nhưng họ đã vấp phải
lời cảnh báo của Stalin nếu hành động như vậy Mỹ và Anh sẽ nhận hậu quả khôn lường.
Vì thế có thể xem như những yêu sách của Nam Tư được Stalin coi là hợp hiến.
Nhưng
chính vào thời khắc phức tạp ấy Tito đã phạm một sai lầm nghiêm trọng, gây nên
cơn tức tối của lãnh tụ Moskva. Làm tình thế thêm rối ren và chọc tức các đồng
minh, lãnh đạo Nam Tư có những lời lẽ trên thực tế làm mất lòng cả các nước
Phương Tây lẫn Moskva. Chí ít ra là điện Kremli hiểu như thế. Tito khẳng định:
“ Chúng tôi sẽ không trả nợ cho toan tính của những kẻ khác. Chúng tôi sẽ không
chi ra một đồng xu mẻ nào. Chúng tôi không muốn lợi lộc của những người khác
chi phố đường lối chính trị của chúng tôi. Chúng tôi cũng không muốn từ nay trở
đi còn lệ thuộc vào ai nữa. Nam Tư sẽ không phải là món hàng hoặc vật để đổi
chác.”
Dễ
hiểu “ Tuyên ngôn độc lập “ kiểu này không hợp với khẩu vị của Stalin. Chính vì
vậy qua Đại sứ Liên Xô tại Belgrad những lời lẽ sau đây đã được chuyển tới tai
Tito: “ Hãy nói với đồng chí Tito rằng nếu còn tái diễn những lệch lạc trong
quan hệ với Liên Xô như vậy một lần nữa, chúng tôi sẽ công khai phê phán đồng
chí ấy trên báo chí và vạch mặt chỉ tên đồng chí ấy”.
Tito
giật mình với lời cảnh cáo của người “đồng chí già” và giữa Moskva với Belgrad
yên ổn được một thời gian nữa. Nhưng nhớ lại những lời lẽ Tito đã thốt ra, lập
tức sẽ hiểu được ngay đường lối chính trị tiếp theo của Nam Tư, ví như về vai
trò khởi xướng của Nam Tư trong Phong trào các nước không liên kết; sẽ hiểu rằng
đó không chỉ là “ những lệch lạc”. Và cũng ngay ở thời điểm này không khó đoán
ra những gì đã chín muồi trong cái đầu của Tito- Nam Tư cần bước tới tương lai
trên con đường của riêng mình, không cần dựa dẫm cả vào Phương Tây lẫn của
Moskva.
Tuy
Phong trào các nước không liên kết ra đời tại Hội nghị Belgrad vào tháng Chín năm 1961, và sáng kiến về sự
kiện này đã được nẩy sinh bởi bộ ba Ioxíp Tito, Gamal Abdel Nasser và
Djavakharlal Neru đề xướng từ năm 1956; nhưng ý tưởng cốt lõi của sự ra đời
phong trào này đã hình thành ở Nam Tư ngay từ những năm sau Thế chiến 2. Thiết
nghĩ Stalin đã linh cảm thấy điều gì đó nên những sự bắt bẻ của ông ta với Tito
nhiều lúc thấy vô lý. Tât cả như báo hiệu sự sụt lở nhanh chóng sẽ xẩy ra. Bước
sang năm 1948 quan hệ giữa Moskva và Belgrad đã xấu đi, qua năm 1949 thì đã
thành cực xấu. Vào tháng 8 năm 1949 Nam Tư không còn là đồng minh của Liên Xô nữa
và bước qua tháng 10 quan hệ ngoại giao giữa hai nước phựt đứt.
Stalin
và người kế tục “ không thành” của ông ta bắt đầu trao qua đổi lại những lời lẽ
“bất nhã” mà từ trước tới
lúc đó chưa hề có trong quan hệ các đảng cộng sản với nhau. Ví như, trong năm
1948, Moskva cho công bố một văn kiện mang tựa đề như sau: “ Đảng cộng sản Nam
Tư đã rơi vào tay bọn đao phủ và lũ gián điệp”.
Stalin
không thể tìm ra cơ hội để đốn gục Tito; ngay cả với toàn bộ ảnh hưởng của mình
trong quyền lực kiểm soát Phong trào cộng sản quốc tế ông ta cũng không thể làm
gì được với thủ lĩnh Nam Tư. Kết quả xẩy ra một thời kỳ chống trả nhau. Tại
Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa tràn lan một chiến dịch chống đối
không sót thương “ những phần tử Tito”; còn ở Nam Tư người ta bài trừ những “
thân Stalin”. Cuối cùng, đã tồn tại giả thuyết Stalin tìm mọi cach thủ tiêu “
người kế nhiệm” . Và Tito chỉ thoát nạn khi Stalin chết vào tháng 3 năm 1953.
Sự
đoạn tuyệt ấy kéo dài mãi tới ngày Khrusov tới thăm Belgrad vào năm 1957.Và được
bắt đầu bằng tiếng cười không ngụ ý gì. Tưa như khi Khrutsov vừa xuống khỏi cầu
thang máy bay, một quan chức Nam Tư nhanh nhẩu đoảng nào đó vội lên tiếng kết tội
Stalin. Khrutsov liền vỗ vai quan chức này và nói to để Tito nghe thấy: “Đồng
chí Tito! Khi đồng chí muốn chấm dứt các cuộc thương thảo với người Nga thì ngồi
đầu bàn bên kia là Stalin, chứ đâu phải tôi!”.
Quan hệ Liên xô - Nam Tư bắt đầu thời kỳ
mới bằng lời bông phèng như vậy…