Ngoài chiếc xe máy còng cọc, coi như “con trâu sắt”
làm công cụ cho nhà thơ đi lại, thì nhà thơ tậu được cả một “đàn trâu đất” để
thưởng ngoạn. Nói một cách hài hước, việc đầu tiên trong đời một trang nam tử
như ông là tậu được hơn 200 con trâu, làm từ các chất liệu khác nhau. Có lần
ông tâm sự rằng, thơ và đàn trâu đã an ủi và vỗ về tâm hồn ông trong những đêm
cô đơn nhất. Ông tuổi gà (sinh năm 1945-Ất Dậu) nhưng lại có thú sưu tầm các
con trâu do các nghệ nhân làm từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước. Nghĩa là
đã 25 năm nay. Trong quãng đời lang thang cơ nhỡ, ông đều mang chúng theo và được
chăm nom cẩn thận.
PHẠM
ĐỨC
MỘT ĐỜI LẬN ĐẬN
VƯƠNG TÂM
Nếu tính từ bài thơ in đầu tiên ở Tạp chí Văn nghệ
Quân đội năm 1964 đến nay, nhà thơ Phạm Đức đã trải qua hơn nửa thế kỷ với sự
nghiệp văn chương. Trái tim nhân hậu của nhà thơ luôn luôn “Giật mình”, ấm áp
lan tỏa làm lay động tâm hồn người đọc. Cho dù chẳng một lời than vãn, nhưng cuộc
đời ông quả long đong, vất vả mọi bề..
Chuyện
vợ con
Các cụ xưa đã nói: “Tậu trâu cưới vợ làm nhà/ Trong
ba thứ ấy thật là khó thay”, thì cả ba thứ ấy nhà thơ đều quay cuồng lo toan mà
không xong. Trước hết, nói đến chuyện lấy vợ, làm nhà của ông thật lắm nỗi
truân chuyên. Đến thăm ông tại ngôi nhà xi măng cất tạm bên sông Bùi, cách Hà Nội
chừng 30 cây số, tôi thấy ông còn chưa hết bàng hoàng khi kể lại chuyện cả chục
lần đi mướn nhà ở thuê, từ khi về hưu đến nay.
Thực ra ông đã từng có căn hộ để ở trong thời gian
còn đương chức. Đầu tiên là ở khu tập thể Bạch Mai, nơi vợ làm việc được phân
đúng 9 mét vuông, khi ông chuyển ngành ra quân năm 1975. Ròng rã 14 năm chung sống
với vợ con (1973-1987) đã xảy ra lắm nỗi éo le.
Rồi chia tay. Sau đó vợ ông đi xuất khẩu lao động
bên Đức. Ông ngậm ngùi tự trách mình không bảo vệ được gia đình và hạnh phúc. Từ
đó một chốn đôi nơi, ông cùng cậu con trai xin ở căn nhà tập thể của Trung ương
Đoàn, nơi ông làm việc tại Nhà xuất bản Thanh Niên. Khi ấy nhà thơ đã bước sang
tuổi 42.
Ấy thế rồi, mấy năm sau, cuộc tình mới ập đến. Đó là
một nàng thơ cùng làm việc với ông. Nàng cũng đã qua một lần đò. Họ đã thêm một
lần lên xe hoa năm 1990. Cả hai cùng bươn chải buôn bán thêm ở một cửa hàng
sách ở phố Trần Hưng Đạo để kiếm kế mưu sinh. Một thời kỳ đổi mới về kinh tế đã
mở ra, cuộc sống gia đình ngỡ như sẽ hạnh phúc lắm sau khi cả hai đã cùng một lần
đổ vỡ. Vậy mà sau 6 năm chung sống, họ lại phải chia tay. Và cũng từ đó mà ông
càng gặp nhiều rắc rối về nơi ở cho riêng mình.
Chuyện
nhà cửa
Nhà thơ bặm môi nhớ lại sự kiện đã xảy ra như bị ma
ám với mình về ngôi nhà được cơ quan phân, ở tầng 4 khu tập thể Vĩnh Phúc, quận
Ba Đình. Vào năm 2004, ông đã bán ngôi nhà này để đến ở với một bà cô già yếu
neo đơn trong họ tộc, với cam kết sau này sẽ được thừa kế tài sản, nhà cửa của
họ. Nhưng với điều kiện nhà thơ nộp nửa số tiền đã bán nhà ở khu tập thể (khoảng
200 triệu đồng) thích ứng với diện tích nhỏ và giá cả vào năm đó. Số tiền còn lại
nhà thơ chia đều cho các con và những người thân trong gia đình họ hàng.
Vậy mà sự đời trớ trêu, sau bốn năm, thời cuộc thay
đổi, giá đất tăng vọt. Lòng người cũng đầy toan tính. Hợp đồng thỏa thuận miệng
trước kia vô bằng cớ, chẳng ai biết đấy là đâu. Họ đồng ý trả lại tiền mà nhà
thơ đã chuyển cho họ trước đó. Một cuộc đời lang thang cơ nhỡ bắt đầu từ đó.
Khoản tiền dành dụm được, ông mua một dúm đất ở phố
Bùi Xương Trạch (Thanh Xuân - Hà Nội) lại bị vào diện quy hoạch, bị giải tỏa.
Tiền mất tật mang. Phạm Đức đi thuê nhà ở lang thang đây đó từ năm 2007. Giá cả
thuê nhà tăng hàng năm. Nhà thơ phải dọn nhà liên tục. Nhà thơ như bị quay cuồng
với tốc độ giá cả trong muôn mặt thị trường.
Một lần, chủ nhà đòi tăng giá, nếu không chịu được
thì phải dọn đi ngay tức khắc. Nhà thơ Phạm Đức bồn chồn như phải bỏng vậy. Biết
dọn đi đâu và thuê nhà sao cho kịp ngày mai. Thời gian lại đúng vào dịp Tết năm
2013. Vậy là nhà thơ gọi điện thoại đi khắp nơi, hỏi xem ai biết chỉ giùm nơi
có thể thuê để ở trong mấy ngày Tết, rồi tính sau.
Một cái Tết bơ vơ chộn rộn. Tâm hồn thi sĩ bị đầy đọa
khốn đốn tận cùng… May sao, có một cuộc gọi điện trong đêm của một người bạn trẻ,
nhà điêu khắc Hà Huy Hiệp, ở tận xã Tốt Động, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Nhà thơ
được báo là đã có chỗ ở, không phải thuê nhà nữa… Phạm Đức bồi hồi nhớ lại rồi
chỉ lên nóc nhà nói, đây là ngôi nhà nơi mà chúng ta đang ngồi, do một tay họa
sĩ Hiệp làm trong ba tháng mới hoàn thành.
Còn những ngày cuối năm đó, nhà thơ Phạm Đức đã ăn Tết
nhờ tại một ngôi nhà bỏ trống của nhà văn Trịnh Văn Túc (hội viên Hội Nhà văn
Hà Nội), ở bên cạnh. Lại thêm một cái Tết tha hương của nhà thơ Phạm Đức nhưng ấm
áp tình người nghệ sĩ. Chính vì thế mà thơ của Phạm Đức, từ khi uống nước xóm Đồng
Dâu, tắm nước sông Bùi, có phần lãng mạn và say đắm hơn thời “Đơn
phương”.
Trong bài “Ru” nhà thơ viết: “Ru người bằng cả ngân
hà/ Khi buồn người ngắm sao xa một dòng/ Ru người lạch suối đầu sông/ Khi sầu
người ngả vào trong trẻo nguồn!...” (tập thơ “Trái tim phản biện”). Và, con
sông Bùi gắn bó với nhà thơ Phạm Đức đã bốn cái Tết trôi qua. Hình ảnh con sông
đã đi vào thơ ông với những nỗi niềm thân thương: “Lại thêm một dòng sông/ Đổ
vào tôi muôn nỗi/ Nỗi dịu dàng, êm ả/ Nỗi cuồn cuộn biển Đông…” (Sông Bùi 2).
Chuyện
“tậu trâu”
Ngoài chiếc xe máy còng cọc, coi như “con trâu sắt”
làm công cụ cho nhà thơ đi lại, thì nhà thơ tậu được cả một “đàn trâu đất” để
thưởng ngoạn. Nói một cách hài hước, việc đầu tiên trong đời một trang nam tử
như ông là tậu được hơn 200 con trâu, làm từ các chất liệu khác nhau.
Có lần ông tâm sự rằng, thơ và đàn trâu đã an ủi và
vỗ về tâm hồn ông trong những đêm cô đơn nhất. Ông tuổi gà (sinh năm 1945-Ất Dậu)
nhưng lại có thú sưu tầm các con trâu do các nghệ nhân làm từ giữa những năm 90
của thế kỷ trước. Nghĩa là đã 25 năm nay. Trong quãng đời lang thang cơ nhỡ,
ông đều mang chúng theo và được chăm nom cẩn thận.
Mỗi con trâu là một câu chuyện và kỷ niệm đáng yêu
trong cuộc đời. Ông đã mang cả đàn trâu về bày quanh ngôi nhà sông Bùi. Có lần
bị mưa lũ, nước dâng lên tràn vào nhà, ông vội vã từ xa trở về lội bì bõm trong
gió mưa và nước ngập đến ngang lưng để “cứu” lấy đàn trâu của mình. Đó chính là
những đứa con tinh thần cuối cùng đã an ủi ông, mỗi khi cô quạnh.
Ông rưng rưng ngắm một con trâu đất rồi đọc: “Sau những
chuyến chuyển nhà gấp gáp/ Tới nơi này, sang nơi khác/ Có mấy con trâu gãy sừng/
Trong lòng tôi một nỗi đau nhọn hoắt/ Như sừng trâu/ Không ai nhìn thấy/ Vết
thương rỉ máu/ Ứa như lệ già” (Sừng trâu). Một cơn sóng chợt ập đến trên sông
Bùi. Nhà thơ đứng lặng nghe âm thanh vỗ ì oạp vỗ trên bãi cỏ xanh non.
“Đèn
đỏ”
Nhà thơ Phạm Đức từ lâu đã nổi tiếng với những bài
thơ tình như “Đơn phương”, “Ví dầu”, “Thì anh lại sợ”… Những người yêu thơ đều
nhớ đến những câu: “Gần nhau mà chẳng yêu cùng/ Đơn phương tôi cứ thủy chung một
mình”. Vậy mà, trong tập thơ mới “Trái tim phản biện” (NXB Hội Nhà văn, 2016),
tôi nghe như ông đã có những trăn trở bất ngờ, qua những tháng ngày lận đận.
Nhà thơ viết: “Ngón tay đã buông/ Gót chân đã ngoắt/
Mái đầu không ngoảnh lại/ Trái tim còn cãi/ Sao lại thành lối rẽ?/ Sao lại là cắt
chia?...”. Đó chính là nỗi niềm lắng sâu khi: “Nhịp trái tim phản biện/ Cay đắng
và âm thầm/ Mặc bàn tay nhạt nhẽo/ Mặc bước chân ơ thờ…” (bài “Trái tim phản biện”).
Có lẽ nơi ngọn nguồn cảm xúc từ con sông Bùi đã khơi thêm cho Phạm Đức một mạch
thơ mới, mạnh mẽ hơn và bật lên những cung bậc ghồ ghề hơn trước, tạo nên mỹ cảm
nơi góc cạnh tâm hồn.
Tôi bỗng giở tới trang 84 của tập thơ, dừng lại với
bài “Đèn đỏ” và giật mình với những câu thơ: “Trên đường lòng/ Tự tôi/ Đôi khi/
Bật/ Đèn đỏ/ Để/ Thanh thản/ Dừng”. Đã có một Phạm Đức khác trong thơ. Tôi chia
tay sông Bùi với hình ảnh của một ông đồ tư lự với chiếc cần câu trên con thuyền
độc mộc. Nhà thơ ngâm nga rằng: “Như là tình ái/ Như là cổ xưa/ Một chiều bất
chợt/ Như vừa hôm qua” (Một chiều). Đó chính là tín hiệu đèn đỏ đã bật lên để
nhà thơ dừng lại chờ rẽ sang một con đường mới.