NGUYỄN XUÂN KHÁNH và tiểu thuyết mới về thời bao cấp
Hơn 30 năm sau khi hoàn tất, cuốn “Chuyện ngõ nghèo” của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh mới được NXB Hội Nhà văn cho ra mắt. Bìa 4 cuốn sách c...
http://www.lethieunhon.vn/2016/10/nguyen-xuan-khanh-va-tieu-thuyet-moi-ve.html
Hơn 30 năm sau khi hoàn tất, cuốn “Chuyện ngõ
nghèo” của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh mới được NXB Hội Nhà văn cho ra mắt.
Bìa 4 cuốn sách có ý kiến đánh giá: "Chuyện ngõ nghèo” không ngạc
nhiên nếu được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh".
Ông Khánh trước đó đã được nhận nhiều giải thưởng về tiểu thuyết và được coi là
một trong những cây bút tiểu thuyết hàng đầu hiện nay. Tiểu thuyết “Hồ Quý
Ly” nhận giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn VN 1998 - 2000,
Giải thưởng Thăng Long của UBND TP.Hà Nội 2002, giải thưởng của Hội Nhà văn Hà
Nội 2001. Tiểu thuyết “Mẫu thượng ngàn” nhận giải thưởng của Hội Nhà
văn Hà Nội 2006. Tiểu thuyết “Đội gạo lên chùa” đã giành vị trí cao
nhất giải thưởng Hội Nhà văn 2011.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và tiểu thuyết
mới về thời bao cấp
“Hẳn nhiều
người còn nhớ Hà Nội những năm tháng khốn khó, người ta phải nuôi lợn làm kế
mưu sinh. Những tiếng ụt ịt vang lên ở dưới gầm cầu thang, trong góc bếp, trong
nhà tắm, trên tầng hai những căn hộ tập thể hai mươi mét vuông ở khắp
nơi. Chuyện ngõ nghèo ra đời trong hoàn cảnh ấy” và “ném ra một cật vấn
đau đáu về bản tính con người”, NXB Hội Nhà văn giới thiệu về tác phẩm.
Trò chuyện với PV Thanh Niên xung quanh
tác phẩm này, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cho biết: “Tác phẩm nằm trong một giai
đoạn viết trong đời sáng tác của tôi. Đầu tiên là những truyện ngắn. Sau đó
là Hoang tưởng trắng và cuốnChuyện ngõ nghèo này. Giai đoạn thứ
ba là giai đoạn viết về lịch sử và văn hóa như Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn,
Đội gạo lên chùa. Chuyện ngõ nghèo hầu như là tự truyện. Câu chuyện xảy ra
ở đúng cái làng này, đúng chỗ tôi đang ngồi đây, làng Thanh Nhàn này đây”.
@ Và ông cũng nuôi lợn như trong chuyện?
- Bạn bè anh em đều chứng kiến tôi nuôi lợn. Tôi
nuôi lợn hơn 10 năm. Khi đó nơi đây là một phường ngoại thành. Bên kia đường,
cách nhau bên kia đê, phố Lò Đúc đã là nội thành. Mỗi lần mổ lợn là ầm ĩ. Nó là
một sự kiện kinh tế trong khu vực. Lò lợn ngày xưa cũng ở đây. Dân làng này nhiều
người sống bằng nghề mổ lợn. Họ phụ việc cho các ông đồ tể. Các ông đồ tể cũng
cư ngụ ở xóm này.
@ Lịch viết văn và nuôi lợn của ông thời đó được bố
trí như thế nào?
- Tôi nhận việc viết văn theo bạn bè. Lúc đó nhà tôi
nghèo, quá nghèo, nghèo lắm í. Thành ra tôi phải đi học nghề thợ may. Tôi làm
thợ may độ 8 năm. Làm may đo ngay ở nhà. Ban ngày thì nuôi lợn và làm thợ may,
ban đêm chui lên gác xép. Thời gian vô cùng eo hẹp nhưng nó cũng kích thích chứ.
Nó tạo ra cái gì khác thường. Kiếm sống và cái viết nó như hỗ trợ cho mình để
có sức mà sống, chống chọi lại những thứ chua chát của cuộc sống.
@ Trong tiểu thuyết có nhân vật quyết định bỏ học để
đi làm nghề mổ lợn. Ngoài đời nhân vật ra sao?
- Thời điểm ấy có thật những người như thế. Mưu
sinh. Nhưng đừng nghĩ là họ không dứt ra được khỏi lựa chọn đó. Vì sự sống luôn
vươn tới, cái cao hơn, tốt hơn. Tuy bí bách, nhưng con người trong cuộc sống đó
cũng vui, lạc quan. Chứ không người ta sống sao nổi.
@ Hà Nội thời bao cấp hiện lên trong Chuyện ngõ
nghèo với chuyện nuôi lợn cùng rất nhiều tình tiết mà giờ đọc lại người ta
thấy vừa thương, vừa buồn cười, vừa đau...
- Hầu như gia đình nào ở miền Bắc cũng đã một lần
nuôi lợn. Hầu như là vậy. Nông thôn đã đành, thành phố cũng thế. Người có quyền
có thế cũng nuôi lợn. Bởi vậy, nghĩ tới thời bao cấp là nghĩ ngay tới chuyện
người người nuôi lợn nhà nhà nuôi lợn. Tôi nghĩ đây là cuốn sách viết về thời
bao cấp mà hầu như chẳng ai viết cả. Có những đói khát thời đó, mơ ước của con
người thời đó. Họ đáng yêu chứ, họ tự cứu mình, tự tìm cách để thoát nghèo. Giỏi
quá đi chứ. Sao mà nhân dân lại nghĩ ra được chuyện nuôi lợn đó.
@ Nhưng chẳng lẽ ngoài nuôi lợn, Hà Nội thời bao cấp
không còn khía cạnh khác để viết nữa sao?
- Có những khía cạnh khác nữa chứ, nhưng những chàng
trai Hà Nội khác lại chưa viết. Thời Pháp, chiến tranh, dân ngoại thành nhập cư
vào Hà Nội rất nhiều, khiến Hà Nội mất dần màu sắc thành thị, màu sắc trưởng giả
đi và bị bình dân hóa dần dần. Sau năm 1954, văn hóa đời thường của Hà Nội hình
thành càng rõ. Có lẽ thời nuôi lợn là thời điển hình nhất của thay đổi văn hóa
đó. Cuộc sống hào hoa lãng mạn không phù hợp nữa. Và người nông dân mang tới một
sức sống mới cho Hà Nội.
@ Nhân vật người vợ trong tác phẩm của ông thật dịu
dàng, bao dung. Giống như trong những tác phẩm khác của ông, tính nữ rất mạnh.
- Đúng. Chính những người phụ nữ như thế sẽ tạo văn
hóa mới cho Hà Nội đấy.
@ Cuốn sách về thời bao cấp này của ông gợi đến Triển
lãm Thời bao cấp của Bảo tàng Dân tộc học. Ông Nguyễn Văn Huy lúc bấy giờ còn
tái hiện cả gian nhà tập thể để nuôi lợn, có tiếng lợn kêu eng éc. Ông Huy có
nói đấy là nếu nói về thời kỳ đó nên nói đầy đủ cả cái được lẫn chưa được.
- Tôi nghĩ người ta muốn sự thật. Người ta không thể
bôi đen mà cũng không muốn tô hồng. Nên khi nói tôi cũng nói công bằng, nói đầy
đủ.
TRINH NGUYỄN
– Báo Thanh Niên