Thuở nhỏ, Nguyễn Ngọc Tư là cô bé hiền hòa, chăm chỉ,
chiều chiều tẩn mẩn hái rau ba trồng, cho má tinh sương hôm sau đem ra chợ bán.
Ban đầu vì thích viết và muốn bớt gánh nặng kinh tế cho ba mẹ, Nguyễn Ngọc Tư mới
hết cấp phổ thông cơ sở đã nghỉ học, có ý muốn xin làm việc tại một cơ quan văn
nghệ báo chí tỉnh Cà Mau, môi trường thuận tiện có thể phát triển nghề cầm bút
mình đam mê. Những lúc thấy con gái ngồi trầm tư suy nghĩ trước trang giấy hay
máy laptop, cha của Nguyễn Ngọc Tư biết được ước nguyện của con, và nhận ra
thêm điều mình còn phải làm. Với tấm lòng thương con, hiểu rõ con gái có khiếu
văn chương, người cha có vẻ thực tế, trải nghiệm như một người đã từng cầm bút,
thường không bỏ qua bất cứ cơ hội tốt nào để khuyến khích con mình: “Nghĩ gì,
viết nấy. Viết điều gì con đã trải qua”. Cảm thông sâu sắc được tấm lòng của bậc
sinh thành, Nguyễn Ngọc Tư vừa nỗ lực công tác tốt ở cơ quan, vừa tranh thủ có
thời gian cầm bút hay ngồi trước máy tính để sáng tác.
Nguyễn Ngọc Tư, nữ nhà văn xóm Rẫy
NGUYỄN THANH
Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ nữ hiện diện đặc
biệt trong làng văn như một vì sao lạ trong không gian văn học đã gần hai thập
niên. Sinh ra trong một gia đình lam lũ, sống bằng nghề trồng trọt, nhà cửa đơn
sơ ở xóm Bà Điều, Đầm Dơi, bao quanh bởi thảm rau bèo xanh ngút, tận U Minh nơi
miền đất Mũi.
Thuở nhỏ, Nguyễn Ngọc Tư là cô bé hiền hòa, chăm chỉ,
chiều chiều tẩn mẩn hái rau ba trồng, cho má tinh sương hôm sau đem ra chợ bán.
Ban đầu vì thích viết và muốn bớt gánh nặng kinh tế cho ba mẹ, Nguyễn Ngọc Tư mới
hết cấp phổ thông cơ sở đã nghỉ học, có ý muốn xin làm việc tại một cơ quan văn
nghệ báo chí tỉnh Cà Mau, môi trường thuận tiện có thể phát triển nghề cầm bút
mình đam mê. Những lúc thấy con gái ngồi trầm tư suy nghĩ trước trang giấy hay
máy laptop, cha của Nguyễn Ngọc Tư biết được ước nguyện của con, và nhận ra
thêm điều mình còn phải làm. Với tấm lòng thương con, hiểu rõ con gái có khiếu
văn chương, người cha có vẻ thực tế, trải nghiệm như một người đã từng cầm bút,
thường không bỏ qua bất cứ cơ hội tốt nào để khuyến khích con mình: “Nghĩ gì,
viết nấy. Viết điều gì con đã trải qua”. Cảm thông sâu sắc được tấm lòng của bậc
sinh thành, Nguyễn Ngọc Tư vừa nỗ lực công tác tốt ở cơ quan, vừa tranh thủ có
thời gian cầm bút hay ngồi trước máy tính để sáng tác.
Mấy truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư viết về
tình bạn ở đồng quê, được cha đem gởi ở tạp chí Văn nghệ Bán đảo Cà
Mau được coi là phép thử lần đầu tiên với cô bé ham cầm bút. Không ngờ, cả
ba truyện đều được đăng báo. “Con nhỏ học hành dở dang này viết được đó”. Ông Tổng
Biên tập vừa nhận xét vừa xoa đầu tác giả, dặn dò: “Viết nữa đi con”. Thế là từ
đấy, Nguyễn Ngọc Tư ngày xuống ao, ra liếp rẫy, tối về lại ngồi viết say sưa. Hạnh
phúc đầu tiên của cô học trò đạm bạc, mê viết và có nguyện vọng theo nghiệp văn
chương tại xứ U Minh đã đến như một bình minh rạng rỡ, ấm áp soi sáng cho những
chiếc rễ đước non tươi mạnh mẽ, hăm hở cắm phặp sâu xuống mảnh đất nghệ thuật xứ
Đầm Dơi - Nam bộ. Vào làm văn thư và học việc phóng viên tại cơ quan, Nguyễn Ngọc
Tư bắt đầu viết tin, viết bài và cả truyện ngắn. Đi thực tế tại cửa biển Khánh
Hội, sông Đốc… sau khi cơn bão dữ số 5 ập vào đất Mũi, được chứng kiến cảnh
làng quê đổ nát, điêu tàn, về nhà Nguyễn Ngọc Tư đã có ký sự : “Nỗi
niềm sau cơn bão dữ”. Tự cho là ký sự mình mới viết còn sên sến, nhưng
Nguyễn Ngọc Tư cũng đoạt giải ba báo chí của tỉnh năm 1997. Quy ra lúa, giải
thưởng không có là bao nhưng nó tạo niềm tin, làm bệ phóng tinh thần để tác giả
khẳng định phương châm làm việc cho mình: “Viết là viết, bất kỳ lúc nào, không
sắp đặt, không bố cục. Cứ để đoạn sau cuốn theo đoạn trước”. Nguyễn Ngọc
Tư nghĩ viết cũng gần gũi như sống đời thường, như ăn nói, đi đứng tự nhiên hằng
ngày của con người mà không thần thánh hóa văn chương. Hẳn là nhà văn đã nghĩ
người viết hay cũng như một diễn viên phải đóng nhập vai trên sân khấu. Nghĩa
là tác giả viết như đang trong tâm trạng của chính nhân vật trong truyện của
mình như một chân lý không được coi là xa lạ, thờ ơ đối với người cầm
bút. Và Nguyễn Ngọc Tư đã thong dong, bền bỉ đi theo con đường nghệ thuật mình
đã vạch ra giữa bận rộn công việc nhà và tại cơ quan. Cứ thế mà những truyện ngắn:
Ngọn đèn không tắt, Nỗi buồn đất lạ, Lý con sáo sang sông, Chuyện của Điệp, Ngổn
ngang, tiếp nối nhau ngồn ngộn ra đời, gây được tiếng vang trong làng cầm
bút do thực chất nội dung hiện thực và nghệ thuật đặc biệt của nó.
Trong hầu hết các truyện, Nguyễn Ngọc Tư dường như
đã làm một thông điệp, nói hộ thay cho người dân đói nghèo, cơ cực nơi vùng đất
Mũi, những ước mơ thầm kín, những nỗi lòng đau thắt của kẻ yêu thương lỡ dỡ và
ngang trái của những mối tình chân không thành bắt nguồn từ cảnh hàn vi nghiệt
ngã. Và người đọc không khó nhận ra nhân vật lãng đãng, cốt truyện tản mạn
không hề mang dấu ấn rập khuôn theo nguyên mẫu nào. Tác giả viết dễ dàng như thể
đang đi bắt sâu ở liếp rẫy ngoài đồng, luống rau trong vườn hoặc chuyện đuổi gà
vịt nơi sân nhà. Tuyệt nhiên, Nguyễn Ngọc Tư không thiết tha gì đến chuyện muốn
làm văn sĩ, hay để mong đoạt giải, được tiếng tăm trên văn đàn. Tác phẩm viết
xong thì như bỏ quên đâu đó. Mãi đến lúc có người giục khi sắp hết thời hạn cuộc
thi “Văn học tuổi 20” - năm 2000 do Nhà xuất bản Trẻ tổ chức, Nguyễn Ngọc Tư mới
ra bưu điện, gởi bài dự thi. Không ngờ, cô bé viết văn xóm rau bèo lại ẵm giải
nhất với phần thưởng 20 triệu đồng. Năm sau, cũng với chùm truyện “Ngọn
đèn không tắt” ấy, Nguyễn Ngọc Tư đoạt luôn giải B của Hội Nhà văn Việt
Nam. Rồi giải dành cho tác giả trẻ nhất của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội
Văn học Nghệ thuật Việt Nam kèm theo nhiều bằng khen và tiền thưởng.
Mới 27 tuổi, Nguyễn Ngọc Tư đã được kết nạp vào Hội
Nhà văn Việt Nam, được làm vợ, làm mẹ và tiếp tục hăng say viết. Thấy tài hoa
trẻ còn hứa hẹn nhiều triển vọng, bạn bè vặn vẹo hỏi vui: “Sao viết văn mà lấy
chồng chi sớm?”, Nguyễn Ngọc Tư cũng thành thật: “Có chồng là thợ bạc cách nay
bốn năm - cuộc hợp hôn không hẹn mà có hạnh phúc… Quan trọng là không để có chồng
mà xuống dốc”. Mà đúng là sau đó người ta thấy Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục lên dốc
trên con đường nghệ thuật. Không viết truyện thì viết báo, và ai cũng biết Nguyễn
Ngọc Tư có “hàng bán chạy” từ Nam chí Bắc. Sau khi được tuyên dương là một
trong “Mười nhân vật trẻ xuất sắc tiêu biểu của năm 2002” vào năm 2003, Nguyễn
Ngọc Tư lại đoạt luôn giải thưởng của Hội Nhà văn Việt nam (2006) với tác phẩm
gây không ít xôn xao dư luận “Cánh đồng bất tận”, dù tác phẩm này sau đó lại
tiếp tục nhận thêm giải thưởng Văn học Asean (2008), rồi được dựng thành phim
(2010) cùng tên và viết thành kịch bản sân khấu.
Đã trở thành khuôn mặt nổi tiếng quen thuộc trong
làng văn, mặt mày sáng sủa có duyên, nhưng Nguyễn Ngọc Tư là một phụ nữ
khiêm tốn, kiệm lời, rất sợ lên báo hoặc phỏng vấn, vì ngại phải nói nhiều hoặc
tiếp xúc với đám đông, xuất hiện trước quần chúng - một tính cách mà các nhà
tâm lý học gọi là con người “hướng nội” (introvert) dù bản thân đương sự tài
hoa xuất chúng. Bù trừ vào tính cách đặc thù này của Nguyễn Ngọc Tư, ai cũng thấy
rõ một điều, qua các bài phỏng vấn, trao đổi với nữ nhà văn. Khi bắt đầu chịu
nói hay trả lời, Nguyễn Ngọc Tư vẫn nhỏ nhẹ mà trở nên lưu loát, sâu sắc, trí
tuệ lại hay văn vẹo phản biện trong cách đối đáp, bằng những từ ngữ mang ý
nghĩa khai phá, sáng tạo như cách đặt tựa truyện ngắn của nhà văn: Ngọn
đèn không tắt, Gió lẻ, Cuối mùa nhan sắc, Cánh đồng bất tận…Về
cá tính nghệ sĩ cũng có nét độc đáo: trong khi Sơn Nam không thích nghe nói
chuyện gì khác ngoài văn chương và nói dóc, thì Nguyễn Ngọc Tư lại tránh nghe
chuyện văn chương mà chỉ thích nói chuyện đời! Là phụ nữ có gia đình, chồng
con, Nguyễn Ngọc Tư thích giao du và nhâm nhi với đàn ông (đến mức ông chồng phải
thắc mắc sao điện thoại toàn “anh” không à?) hơn là phụ nữ vì sợ nhiều
chuyện!
So với một số nhà văn trên thế giới đã sớm nổi tiếng
ở độ tuổi trên dưới đôi mươi ngày ấy của Nguyễn Ngọc Tư như: Francoise Sagan
(1935-2004), Arthur Rimbaud (1854-1891), Thôi Hiệu (704-754), Chế Lan Viên
(1920-1989), Nguyễn Bính (1918-1966), ở tuổi bốn mươi hiện nay, nhà văn đã sở hữu
một sự nghiệp văn chương được gọi là đáng kể. Chưa vội nói đến thơ và tạp bút của
Nguyễn Ngọc Tư, ta thử bước chân tham quan vài nơi trong vườn truyện trù phú của
nhà văn. Ai cũng biết “Ngọn đèn không tắt” là truyện ngắn, lần đầu
tiên của Nguyễn Ngọc Tư, được trao liên tiếp ba giải: Giải Mai Vàng, Văn học
tuổi hai mươi và giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ
thuật Việt Nam, trong vòng hai năm (2000-2001). Trong nội dung tác phẩm,
Nguyễn Ngọc Tư vẽ lên cái Xóm Rạch nhỏ nhít vùng biển nơi đó có cô gái tên Tươi
19 tuổi, tràn trề sức sống, hồn hậu như mảnh đất phương Nam. Tươi mạnh mẽ với
phong thái của người đi khai rừng phá núi nhưng dịu dàng, ngọt ngào, đôi mắt
sáng lấp lành như cháy hoài ngọn lửa tin yêu vào cuộc sống. Người đọc nhận thấy
bàng bạc trong truyện là những tấm lòng của từng con người như Tư Lai, Tươi qua
từng thế hệ trong gia đình ông Hai Tương, đã dành trọn sự kính trọng và ân tình
cho những anh hùng liệt sĩ - những người đã ngã xuống vì độc lập tự do cho tổ
quốc quê hương. Công việc hằng năm đi kể chuyện lịch sử quê hương của những
thành viên trong gia đình ông Hai Tương là những việc làm xem ra rất bình thường,
nhưng mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Đó là : quyết tâm giữ mãi ngọn lửa truyền
thống đấu tranh đuổi giặc giữ nước của cha ông, để cho “ngọn đèn” lịch sử
chói lọi của dân tộc, của cha ông cháy mãi, sáng mãi trong từng tâm hồn
của thế hệ mai sau. “Ngọn đèn không tắt” không phải là một sáng tác phá cách về
sáng tạo văn chương nhưng khiến người đọc phải trân trọng ý nghĩa giáo dục về
tính nhân văn tỏa rạng trong từng hình tượng văn học ở tác phẩm mà Nguyễn Ngọc
Tư đã ký thác. Những hình ảnh của con người Nam bộ mà Nguyễn Ngọc Tư phác họa
trong “Ngọn đèn không tắt” và nhiều tác phẩm khác khiến người đọc miệt vườn có
thể liên tưởng tới quá trình hình thành và phát triển của cây đước nơi rừng U
Minh. Trái đước nẩy mầm từ lúc còn treo lơ lửng trên cây. Khi rụng xuống, nó được
sóng biển đưa đi trôi dạt khắp nơi, khi gặp bùn lầy, trái đước trụ lại, rễ
non bám vào phù sa. Sau khi bám rễ trong đất, mầm đước nẩy lên một búp non màu
đỏ như lửa và xòe ra hai lá xanh non đầu tiên đón ánh sáng và khí trời. Quá
trình bén rễ cũng là quá trình nâng cây đước đứng thẳng lên giữa đất trời để cuộc
đời hiểu được sứ mệnh của nó. Một bài học ý nghĩa cao đẹp từ cây đước đã được
minh họa bằng hình tượng những nhân vật trong tác phẩm vừa được giải của Nguyễn
Ngọc Tư.
Như ngọn đèn cứ mãi cháy càng lúc càng
sáng, hơn năm năm sau (2006), truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn
Ngọc Tư tiếp tục ra đời, được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam rồi giải Văn
học Asean (2008) nhưng gây không ít chấn động trong dư luận. Cũng lấy bối cảnh
không gian ở đồng bằng sông Cửu Long như“Ngọn đèn không tắt”, Nguyễn Ngọc Tư
xây dựng tác phẩm mới này dựa vào hoàn cảnh thời gian và tuyến nhân vật không
giống như trước đây. Dường như nhà văn có ước mơ hiện thực hóa xã hội trong tác
phẩm văn học của mình. “Cánh đồng bất tận” của nhà văn xứ Đầm Dơi
hình thành một thế giới nhân vật với Út Vũ, và hai đứa con là Nương, Điền cùng
người phụ nữ dạn dày làm nghề không vốn từ bốn phương trôi giạt về. Sau khi Út
Vũ đốt nhà vì vợ theo trai, họ ra đi cùng sống đời du mục quanh năm
trên một chiếc ghe chở đàn vịt chạy đồng, đi qua những thửa ruộng ngập mặn và
váng phèn. Tên truyện có vẻ mênh mang thi vị nhưng cốt truyện lại đầy
khúc mắt, gây cấn với những nhân vật được đặt vào những tình huống căng thẳng đầy
kịch tính. Đó là người vợ của Út Vũ ngày ấy, “một người đàn bà có cái cười lấp
lánh cả khúc sông” từng được một người đàn ông thương hồ buôn vải ngầm khen đẹp,
để rồi phải bỏ tổ ấm nhà cửa và người chồng đầu ấp tay gối: “Sáng sau, thím Tư
đi chợ, tới bến tàu cho hay Vợ Út Vũ bỏ nhà. Theo trai”. Đó là người mẹ đã đành
lòng bỏ biệt những đứa con máu thịt, ra đi biệt dạng, vì chúng nó vô tình cho
biết đã nhìn lén được qua kẹt bồ lúa cảnh người mẹ ruột của mình với người đàn
ông xa lạ không phải là cha mình: “Trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn
người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi!” để trả thay tiền khúc lụa màu đỏ
cho gã thương hồ. Và hận tình, người chồng trả thù vợ trên thân xác những người
đàn bà khác. Đó cũng là tình huống đứa con gái tốt bụng của Út Vũ tên Nương, cứu
được người đàn bà đang bị người ta đánh ghen dã man đến mức độ chưa từng thấy:
“Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị”. Rồi đến lượt chính cô gái
ngây thơ mới 17 tuổi ấy, lại trớ trêu bị bọn côn đồ làng quê cưỡng hiếp
tàn nhẫn ngay trước mặt người cha ruột của mình đến lúc phải thảng thốt: “Không
biết con bị…có con không cha?”. Dưới ngòi bút tả thực của Nguyễn Ngọc
Tư, những nhân vật xuất hiện được mô tả một cách nghệ thuật mà tự
nhiên, trần trụi và táo bạo đến độ nhà văn Sơn Nam phải thốt lên “Nguyễn Ngọc
Tư viết hay nhưng rất hỗn”.
Viết truyện ngắn hoặc tiểu thuyết, khi diễn tả tính
cách, tâm lý, tình cảm nhân vật… - theo nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan - tác
giả chỉ khách quan mô tả bằng cách nêu lên chi tiết về chân
dung, thái độ… của nhân vật mà không để ý kiến nhận xét của người viết xen
vào. Nguyễn Ngọc Tư đã làm như vậy trong hầu hết các truyện mang tính hư cấu
của mình. Lời văn, ngôn ngữ minh họa nhân vật, cảnh quan của của Nguyễn
Ngọc Tư trong “Cánh đồng bất tận” dù mang sắc thái Nam bộ: Tự nhiên,
không cầu kỳ nhưng vẫn ví von, bóng bẩy, câu văn vẫn có giai điệu, sắc màu nghệ
thuật khá gần gũi với nhà văn Trang Thế Hy mà ít gặp có điểm tương đồng với nhà
văn Sơn Nam. Đây là đoạn văn Nguyễn Ngọc Tư bài bản mở đầu bằng câu văn tả
cảnh nghệ thuật có tu từ và màu sắc, mở ra không gian khá thi vị mà tiêu
điều, để làm nền trong “Cánh đồng bất tận”: “Con kinh nhỏ nằm vắt qua
một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường
như đã gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cậy lúa chết non trên đồng, thân đã
khô cong như tàn ngang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn…”. Do vậy, “Cánh
đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư là một tác phẩm được coi là đậm dấu ấn về
sex bao trùm hết mọi người trong gia đình: Út Vũ, người vợ hư hỏng, người phụ nữ
làm đĩ, gã thương hồ buôn vải, Nương…và bọn côn đồ làng quê.
Người đọc nhớ lại, văn học thế giới từ trước đến nay
đã có những nhà viết tiểu thuyết chứa dựng ít nhiều không khí sex như : nhà văn
Pháp Émile Zola (1840-1902), Ngô Tất Tố (1894-1954) với Tắt đèn, Vũ Trọng
Phụng (1912-1939) với Làm đĩ, Giông tố, Kỹ nghệ lấy Tây,…, Hoài Điệp Tử với Vũng
lầy, Nguyễn Thụy Long (1938-2009) với Con đĩ ngựa, Nguyễn Thị Thụy Vũ
(sinh năm 1937) với Mưa không ướt đất, Nguyễn Thị Hoàng (sinh
năm 1939) với Vòng tay học trò… Nhưng đậm đặc nhất là ở nhà văn Nhật
Murakami: Mịt mùng với Rừng Na Uy, nữ nhà văn Pháp Christiane Rochefort
(1917-1998): triền miên với Le repos du guerrier (Phút dừng chân của
người lính trận), Lê Xuyên (1927-2004): Trần trụi với Rặng trâm bầu, Đỗ
Hoàng Diệu (sinh năm 1976): huyễn hoặc, phi luân với Bóng đè, … Nhưng ở
“Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư, ai cũng thấy rõ nồng độ sex dường như
triền miên, đậm đặc hơn nhiều. Chuyện ngại nhìn và khó nói ấy đã bao phủ mịt
mùng không dứt qua ngòi bút tài hoa, giàu cá tính mà thấm đẫm nét hiện thực xã
hội trong suốt chiều dài nội dung cuốn truyện vừa của nữ nhà văn miền đất Mũi.
Do vậy mà từ lúc xuất hiện trên thị trường sách đọc, dù liên tiếp nhận được nhiều
giải thưởng đỉnh cao, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư đã làm dấy động
văn đàn với những lời khen chê rầm rộ từ mọi giới trong cả nước. Mới hơn thập
niên, ý kiến phẩm bình chung về tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư trong đó tập trung cô đặc
vào “Ngọn đèn không tắt” và “Cánh đồng bất tận”, đã làm hao tốn
không biết bao nhiêu giấy mực và mối quan tâm của độc giả, cả quần chúng trong
và ngoài giới văn học.
Tóm lại, Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn có chân
tài trong nền văn chương hiện đại Việt Nam. Tác phẩm của nhà văn mang tính
hiện thực sâu sắc vì đã phản ánh được chân dung đích thực với tâm tư, nguyện vọng
và tình cảm của lớp người lao động nghèo khó ở đồng bằng sông Cửu Long, bằng
một phong cách nghệ thuật tiêu biểu cho lối viết chơn chất mà cô đọng của những
người cầm bút ở phương Nam..
Chưa vội nói thêm đến tác phẩm khác của khối lượng
sáng tác đồ sộ trong đó có tiểu thuyết “Sông” cùng những truyện ngắn,
tạp văn, tùy bút và tập thơ “Chấm” của Nguyễn Ngọc Tư, với “Ngọn
đèn không tắt” và “Cánh đồng bất tận”, có thể coi nữ nhà văn miền đất
Mũi là một hiện tượng đặc biệt trong làng văn học nước nhà.
Riêng phim “Cánh đồng bất tận”, được chuyển thể từ cuốn truyện cùng tên của
Nguyễn Ngọc Tư, sau khi phát hành đã đạt doanh thu 17 tỷ và tập truyện ngắn “Đào” in
25.000 bản, rồi tiểu thuyết “Sông”: 11.000 bản, ra mắt và được ký tặng bạn
đọc tại Hội trường 87, Triển lãm Giảng Võ Hà Nội. Chỉ sau hơn tuần đến hai
tháng, những cuốn sách đã bán hết, được tái bản, đủ để nói lên tác phẩm Nguyễn
Ngọc Tư đã đi vào lòng người đọc và tên tuổi nữ nhà văn Nguyễn
Ngọc Tư thực sự có vị trí đặc biệt trên văn đàn cả nước.