Nhìn vào sự nhộn nhịp của quầy bán vé, thì thị trường
điện ảnh nước ta đang có vẻ thịnh vượng. Thế nhưng, con đường phát triển của
phim Việt lại khá mù mờ. Ngoài những sản phẩm hài, nhảm mua vui nhất thời, phim
Việt có gì trong hành trình chinh phục công chúng? Và vai trò của dư luận đối với
việc nâng cao thẩm mỹ cho khán giả phim Việt ra sao? Cuộc trò chuyện với nhà
văn – nhà phê bình điện ảnh Tô Hoàng ít nhiều sẽ giải đáp thắc mắc “tôi
vẫn tự hỏi, nền điện ảnh dân tộc hiện nay còn sống hay đã chết? Liệu có phải đã
và đang xẩy ra một cuộc xâm lăng văn hóa thông qua con đường phim ảnh không
đây? Đâu rồi những trang lịch sử vàng của những bộ phim thuở phim truyện Việt
Nam khai sinh…?"
PHIM VIỆT ĐANG NAO NÚNG Ở KHÂU NÀO?
@ Khi đặt bút
viết bài giới thiệu hoặc đánh giá về cái hay, cái dở của một bộ phim nào, ông
có ngại đụng chạm với các tác giả của bộ phim đó không?
Tô
Hoàng: Tôi không bao giờ phải nghĩ tới “sự đụng độ” giữa
mình và các tác giả của bộ phim. Nhớ lại đầu những năm 1990, khi ở Sài Gòn nở rộ
phong trào làm phim chịu mang tên là “mì ăn liền”, mỗi ngày tôi nhận được giấy
mời xem tới 3, 4 bộ phim “mới ra lò”. Tôi thẳng thắn nói với các ông chủ bỏ tiền
làm phim: “Phim các bác hay, em sẽ viết bài khen liền, còn nếu phim các bác dở,
em lờ đi, được chưa?”. Vì sao tôi có sự “thỏa hiệp” này? Vì tôi hiểu, người ta
bỏ cả một đống tiền ra, điều đương nhiên là phải mong đồng vốn phổng phao lên,
không ai mong số vốn kia quắt queo đi!”. Tôi còn nhớ rõ, dạo đó, có một nhà sản
xuất phim đã nói với tôi: “Anh cứ góp chừng một phần tư vốn với tôi, khi đó
ngòi bút của anh sẽ mềm mại, chuẩn xác hơn nhiều”(?! ). Và điều này, mối quan hệ
tốt đẹp giữa tôi và các nhà sản xuất phim tư nhân thuở đó còn xuất phát từ một
điểm cơ bản nữa: Tôi không bao giờ xin xỏ, vòi vĩnh họ đồng xu cắc bạc vì bài
viết của mình!
@ Theo ông, một
nhà phê bình phim, cần đến những tố chất gì?
Tô
Hoàng: Người viết giới thiệu, phê bình phim phải hiểu biết
rõ bản chất và những đặc thù của nghệ thuật điện ảnh nói chung; khâu “bếp núc”
của việc làm phim nói riêng. Đó là điều đương nhiên. Phải có “gu” thẩm mỹ tốt.
Nhưng vượt lên tất cả vẫn là phải có Tâm (tức sự khách quan, công bằng) trong
việc khen chê. Không vì bất kỳ lý do gì có thể khiến những dòng viết của mình
chuyệch choạc, xẹo xọ trong nhận định, đánh giá về một bộ phim, về các tác giả.
Còn một điều nữa cũng xin được nói thêm: ý kiến khen chê phim của phóng viên
sâu sắc, tinh tế; nặng nhẹ ra sao cũng còn phụ thuộc vào ban biên tập tờ báo và
người phụ trách trang văn nghệ của báo đó!
Bốn, năm năm đầu thập niên 1990, khi phụ trách phần giới thiệu phê bình phim
trên báo Lao Động là thời kỳ tôi cảm thấy thoải mái, hăng say, có nhiều bài viết
được người đọc thiện cảm nhất. Vào thời kỳ đó Lao Động là một trong vài tờ báo
có lượng người đọc đông đảo, cũng là một trong số tờ báo rất có uy tín trên cả
nước. Một bài viết ra lập tức tạo được dư luận và sự phản hồi rộng rãi. Phụ
trách Thư ký Tòa soạn lúc đó là nhà báo giàu kinh nghiệm- Chánh Trinh. Anh thường
nói với tôi: “Tôi không cần anh viết nhiều, viết năng xuất. Anh viết sao để trước
dư luận khen chê phim này phim kia, người đọc báo bảo nhau, phải xem báo Lao Động
viết gì về phim này thì mới ổn. Thế là đạt!”.
@ Ông đánh giá
ra sao về tình hình điện ảnh nước nhà hiện nay…
Tô
Hoàng: Tôi là phóng viên viết giới thiệu, phê bình phim,
lại cũng tham gia công tác giảng dạy tại Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội và
Đại học Sân khấu - Điện ảnh TPHCM. Điều này giúp cho tôi có may mắn được xem đi
xem lại nhiều lần một bộ phim (đặc biệt là phim truyện Việt Nam). Sau năm 1986,
tức là sau ngày chúng ta chấp nhận nền kinh tế thị trường và thuộc tính hàng
hóa của các sản phẩm, kể cả vật chất lẫn tinh thần, có thể kể ra đây tên những
bộ phim truyện theo “dòng chính thống” xuất sắc của điện ảnh nước nhà. Những bộ
phim ấy đã vượt qua được căn bệnh công thức, giáo điều trong các bộ phim của thế
hệ đi trước, đã là một ưu điểm. Được hưởng làn gió dân chủ, cởi mở, những bộ
phim này dám nhìn thẳng hiện thực đời sống, lôi ra ánh sáng công luận những điều
phải lên án, phải được xóa bỏ ngay; phản ánh được những trăn trở, nhức nhối, những
khát khao đổi mới của đồng bào mình. Xét thuần túy về nghệ thuật biểu đạt, những
bộ phim tôi sắp kể tên cũng đã sải một bước tiến dài so với phim ảnh của các bậc
cha chú đi trước, tiếp cận được cách kể chuyện từ màn ảnh hiện đại của nền điện
ảnh các nước trên thế giới. Đó là các bộ phim “Thương nhớ đồng quê” của đạo diễn
Đặng Nhật Minh; “Ngã Ba Đồng Lộc” của đạo diễn Lưu Trọng Ninh, “Nước mắt Hạ
Long” của đạo diễn Phi Tiến Sơn, “Rừng đen” của đạo diễn Vương Đức, “Đời cát” của
đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, “Thung lũng hoang vắng” của nữ đạo diễn Nhuệ Giang,
“Sống trong sợ hãi” của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên và một vài bộ phim khác. Đồng
vốn làm ra những bộ phim này có thể đến từ tiền của Nhà nước, có thể do các tác
giả xoay sở ở đâu đó.
Điều đáng nói, đáng nhấn mạnh, các bộ phim vừa kể
trên vẫn đi đúng dòng chủ lưu của điện ảnh “chính thống” với đích tới là bám
sát đời sống, phản ánh những niềm quan tâm căn cốt của hàng triệu người xem,
toàn tâm biểu hiện những điều đó bằng nghệ thuật và kỹ thuật điện ảnh hiện đại.
Còn điều này: tác giả của những bộ phim kể trên trọng danh dự của bản thân,
danh dự nghề nghiệp, không phải quỵ lụy trước sự sai khiến của đồng tiền mà bán
tên tuổi, bán nghệ thuật…
Vâng, đáng tiếc, rất đáng tiếc rằng những thể nghiệm thành công ban đầu của thứ
điện ảnh đổi mới như vậy không được vun vén, chăm tưới, bảo vệ trong cơn bão lốc
của nền điện ảnh chỉ lấy đồng lợi nhuận là mục đích chủ yếu.
@ Nghe có vẻ
bi quan quá chăng?
Tô Hoàng: Tôi vẫn tự hỏi, nền điện ảnh
dân tộc hiện nay còn sống hay đã chết? Liệu có phải đã và đang xẩy ra một cuộc
xâm lăng văn hóa thông qua con đường phim ảnh không đây? Đâu rồi những trang lịch
sử vàng của những bộ phim thuở phim truyện Việt Nam khai sinh như “Chung một
dòng sông”, “Con chim vành khuyên”, “Chị Tư Hậu”, “Chiến sỹ trẻ “…? Thiết tưởng
câu trả lời phải là của nhiều người, nhiều ngành, nhiều giới. Xã hội Việt Nam
đang đứng trước rất nhiều những vấn nạn đe dọa trực tiếp tới sinh mệnh cả dân tộc.
Ô nhiễm thực phẩm và môi trường; hiểm họa của biến đổi khí hậu; nạn tham nhũng,
mua quan bán chức; tình trạng suy thoái đạo đức... và bao trùm tất cả là vấn đề
bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Nếu đặt mỗi người làm hoạt động điện ảnh,
yêu điện ảnh trong chúng ta vào chiếc ghế của ông Thủ tướng, chắc chắn cũng
đành lòng gạt chuyện phim ảnh sang một bên. Buồn, nuối tiếc những gì đã qua, đã
từng nắm trong lòng bàn tay nay tuột trôi hết. Nhưng biết làm sao đây?
@ Ông có để ý
rằng, bây giờ giới thiệu phim trên báo mạng chỉ giống như quảng cáo?
Tô
Hoàng: Trên báo mạng, báo viết, báo hình hiện nay thỉnh
thoảng tôi cũng gặp đôi bài viết giới thiệu phê bình phim sắc sảo, khách quan,
có “gu” thẩm mỹ tốt. Có điều này, tôi đoán không sai, ở báo mạng, báo viết, báo
hình bây giờ chắc chắn không còn những phóng viên chuyên theo dõi, chuyên viết
về điện ảnh, về phim như thời kỳ chúng tôi còn làm báo. Nhiều bài viết, nhiều
chính kiến của các bạn viết trẻ hôm nay cũng khiến tôi sửng sốt, ngạc
nhiên. Ví như, các bạn “té nước theo mưa” phản đối, lên án đồng tiền Nhà
nước bỏ ra làm phim? Chúng ta chỉ nên phê phán những bộ phim xài tiền Nhà nước
mà chất lượng dở, nội dung nhắm “cúng cụ “ mà thôi. Còn với một nền điện ảnh
đang chuyển đổi, vẫn sáng tác theo yêu cầu “định hướng XHCN ” thì cái “bầu sữa
mẹ” kia vẫn còn hết sức cần.
Vì sao nhiều bạn viết trẻ la ó trước nhưng bộ phim
như “Chơi vơi”, “Bi ơi, đừng sợ”, “Đập cánh giữa không trung”? Rằng “ bôi đen
hiện thực”, rằng “làm phim chỉ nhắm dành cho người xem nước ngoài”, rằng “ phim
sex” quá? Các bạn còn đang trẻ, đâu đã là ông lão X.80 như tôi?
Thực tế cuộc sống đang diễn ra quanh ta như thế nào, chúng ta đui mù hay sao mà
không nhận ra? Sex à? Xem những cảnh nude hoặc khoe lưng khoe đùi kia có phục vụ
cho tình tiết của bộ phim hay không, rồi hãy la làng. Còn phim dành cho người
xem nước ngoài à? Phim của Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca thuở ban đầu chẳng bị
la ó “làm phim chỉ nhắm cho khán giả nước ngoài” đó thôi? Thậm chí có thời gian
những bộ phim của hai ông này còn bị cấm chiếu tại Trung Hoa đại lục. Nhưng nếu
không có phim của hai ông chiếm Giải Vàng, Giải Bạc tại các Liên hoan Phim Quốc
tế, còn lâu người làm phim thế giới mới biết tới điện ảnh Trung Hoa hôm nay.
Thực trạng quy trình làm phim thương mại và đặc biệt là phim truyện nhiều tập
dành cho truyền hình bây giờ đang bị đồng lời lãi bóp cổ, xiết hầu. Nếu bộ phim
ví như một cành xanh thì những phép tính lời lãi ấy đã, đang vặt trụi hết lá
xanh, chồi biếc. Và bộ phim chỉ còn là chiếc chổi xể te tua, khẳng khiu để quét
sân. Bởi lẽ đó, còn nhìn thấy ở bộ phim nào sự tìm tòi trong cung cách thể hiện,
trong diễn xuất, trong tạo hình; còn thấy sự nỗ lực của đạo diễn, quay phim,
thiết kế mỹ thuật… để lý giải tất cả bằng ngôn ngữ điện ảnh, chúng ta hãy có cặp
mắt tinh để nhận ra, để trân trọng, để bình giá… Và cuối nữa là để chỉ ra cái
được, cái hay, góp phần nâng cao thụ cảm thẩm mỹ đang bị xuống cấp của không ít
người xem.
T.H