Thương mại tự do ngày càng tăng lên và các sinh
viên, học giả nghiên cứu với nhau nhiều hơn. Hoa Kỳ đón sinh viên Việt
Nam nhiều hơn bất kỳ nước nào khác ở Đông Nam Á. Mỗi năm Việt Nam đón ngày
càng nhiều du khách Mỹ, trong đó rất nhiều người "Mỹ balô" trẻ. Họ tới 36
phố phường cổ Hà Nội, mua sắm ở Hội An, tham quan cố đô Huế. Là người Việt
và người Mỹ, chúng ta có liên hệ với nhau, như nhạc sĩ Văn Cao viết: “Từ
nay người biết quê người. Từ nay người biết thương người”. Trong cương vị tổng
thống, tôi muốn tiếp tục những sự phát triển trong quan hệ hai nước và với
quan hệ đối tác toàn diện, chính phủ hai nước ngày càng làm việc gần gũi với
nhau hơn bao giờ hết.
Hôm qua, tôi thăm phố cổ Hà Nội và ăn bún chả rất
ngon, có uống luôn bia Hà Nội. Đường phố đông đúc và trong đời tôi
chưa từng thấy nhiều xe máy như vậy. Tôi chưa thử qua đường, nhưng sau này
có dịp trở lại Việt Nam, các bạn hãy chỉ cho tôi cách qua đường như thế
nào.
Tôi không phải tổng thống Mỹ đầu tiên đến Việt Nam
trong những năm gần đây, nhưng tôi là người đầu tiên - cũng như các bạn -
trưởng thành sau cuộc chiến tranh Việt Nam.
Khi lực lượng quân sự cuối cùng củaMỹ rời Việt Nam,
lúc đó tôi 13 tuổi. Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với người Việt Nam là lúc đang lớn
lênở Hawaii, nơi có một cộng đồng người Việt. Nhiều người trẻ Việt Nam, và thế
hệ trẻ hơn tôi, giống như hai con gái tôi, khi sinh ra và lớn lên chỉ
biết đến hòa bình và quan hệ bình thường hóa Việt Nam - Hoa Kỳ.
Khi đến đây tôi ý thức về quá khứ, ý thức về một lịch
sử khó khăn, nhưng chúng ta đều hướng về tương lai. Hoa Kỳ và Việt Nam đều hướng
tới sự thịnh vượng, an ninh và ổn định. Tôi trân trọng quá khứ lịch sử rất huy
hoàng của Việt Nam. Hàng nghìn năm, Việt Nam đã trồng cấy ở mảnh đất này.
Lịch sử được viết lên những chiếc trống đồng Đông Sơn. Hà Nội đã đứng vững trên
dòng sông Hồng hơn 1.000 năm. Thế giới đều biết đến lụa và những danh họa của
Việt Nam. Còn Văn Miếu là bằng chứng hiếu học của người Việt
Nam. Tuy nhiên cũng có nhiều thế kỷ, các bạn bị ngoại bang chiếm
đóng, vận mệnh của các bạn lại bị quyết định bởi người khác, đất nước
không nằm trong tay các bạn. Nhưng cũng như những cây tre, tinh thần bất
khuất của người Việt Nam như Lý Thường Kiệt đã ghi lại: "Sông núi nước Nam
vua Nam ở/ Rành rành định phận ở sách trời".
Hôm nay chúng ta cũng nhớ tới lịch sử giữa người Việt
và người Mỹ mà thường chúng ta đã bỏ quên. Hơn 200 năm trước, một bậc tiền
bối người Mỹ, Thomas Jefferson, đi tìm lúa gạo cho nông trại của ngài
và ông đã tìm đến gạo Việt Nam, loại gạo nổi tiếng vì trắng
nhất, ngon nhất, lại có năng suất. Từ đó, những tàu buôn đã đến Việt
Nam lấy gạo.
Trong Thế chiến thứ 2, người Mỹ đã tới hỗ trợ nhân
dân Việt Nam chống ngoại xâm. Khi đọc Tuyên ngôn độc lập của Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích tuyên ngôn độc lập của Mỹ, nói rằng mọi
người sinh ra bình đẳng, tạo hóa cho họ các quyền bất khả xâm phạm, trong
đó có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Ở một vài thời điểm, lý tưởng chung và lịch sử
chống thực dân có thể đã đưa chúng ta xích lại gần nhau sớm hơn, thế nhưng
Chiến tranh lạnh và nỗi lo sợ chủ nghĩa cộng sản đã đẩy chúng ta tới một cuộc
chiến. Chúng ta đã nhận thức được sự thật đau đớn rằng: một lần nữa Hoa Kỳ và
Việt Nam nhận được bài học rằng dù cho thế nào đi nữa, chiến tranh mang
lại đau đớn và bi kịch.
Từ những bàn thờ, từ những nghĩa trang hãy nhớ
rằng có khoảng 3 triệu thường dân và binh sĩ ở cả hai phía đã hi sinh.
Trên bức tường tưởng niệm ở Washington, người ta có thể chạm vào tên của
58.315 binh sĩ Mỹ vĩnh viễn không trở về.
Ở cả hai nước, các gia đình vẫn cảm nhận được nỗi
đau mất mát người thân, bạn bè. Tại Mỹ, chúng tôi học được rằng cho dù khác biệt
thế nào, chúng ta vẫn phải vinh danh và tôn trọng khi họ trở về nhà sau nhiệm vụ.
Hôm nay người Việt và người Mỹ ngồi lại với nhau, cùng nhận thức nỗi
đau và sự hi sinh của cả hai phía.
Gần đây, trong những thập kỷ qua, Việt Nam đã có những
bước phát triển vượt bậc. Và hôm nay thế giới nhận thức được những gì các bạn
có được. Từ những thành tựu kinh tế, trao đổi thương mại với các nước, trong đó
có Mỹ, các bạn đã đóng góp vào nền kinh tế thế giới. Các bạn bán hàng đi toàn
thế giới; nhiều nhà đầu tư tìm đến với các bạn. Việt Nam là một trong những quốc
gia phát triển nhanh nhất Đông Nam Á và đang tiến bước thành một nước trung
bình.
Chúng tôi thấy được sự phát triển của Việt Nam, bằng
chứng là các tòa nhà cao tầng, những trung tâm thương mại mới xây, các thành phố
vệ tinh... tại Hà Nội, TP.HCM.
Chúng tôi thấy Việt Nam có một thế hệ mới tiếp cận
công nghệ, có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp. Việt Nam có 10 triệu tài khoản
Facebook và Instagram. Các bạn trẻ không chỉ đăng hình selfie, dù rằng tôi nghe
họ selfie rất nhiều và vừa qua nhiều người muốn selfie cùng tôi, mà còn biết
lên tiếng cho những điều mình quan tâm, đơn cử là lên tiếng cứu những cây cổ thụ
tại Hà Nội.
Những điều này thể hiện rõ ràng sự tiến bộ trong đời
sống người dân. Việt Nam đã nhanh chóng xóa được nghèo đói, tăng thu nhập gia
đình và đưa hàng triệu người nhanh chóng gia nhập tầng lớp trung lưu.
Đói nghèo, bệnh tật, chết khi sinh... đều giảm. Số
người có nước sạch tăng cao, số trẻ em cả trai và gái được đi học tiếp tục
tăng. Đây là những tiến bộ vượt bậc mà các bạn đạt được trong một khoảng thời
gian rất ngắn.
Và Việt Nam cũng tạo ra những thuận lợi trong
quan hệ hai nước. Từ trong đối thoại, chúng ta thấy rằng cả hai bên đều
mong muốn thay đổi. Đây là nguồn gốc giúp hai nước hàn gắn, cho phép chúng ta
tìm kiếm những binh lính mất tích, đưa họ trở về nhà; cho phép chúng ta gỡ
bom mìn chưa nổ để không đứa trẻ nào bị mất oan chân khi rong chơi ngoài đồng.
Không chỉ tiếp tục giúp đỡ trẻ em khuyết tật của Việt
Nam, chúng tôi còn hỗ trợ Việt Nam tẩy chất độc da cam, dioxin, giúp Việt Nam có
thêm nhiều đất canh tác. Chúng tôi tự hào vì công việc đang phối hợp
tiến hành tại Đà Nẵng và chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ tẩy độc ở sân
bay Biên Hòa.
Xin hãy đừng quên rằng quá trình hòa giải giữa hai
nước chúng ta có công lớn của các cựu chiến binh từng đối đầu. Thượng nghị
sĩ John McCain, người từng bị giam giữ nhiều năm trong chiến tranh, đã đến gặp
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và ông nói rằng: “Hai nước chúng ta không
nên là kẻ thù, mà hãy làm bạn”.
Nhiều người Mỹ và Việt đã nỗ lực hàn gắn những
vết thương và đem lại lợi ích cho hai nước, ví dụ như trung úy hải quân
mà giờ là Ngoại trưởng John Kerry. Xin cảm ơn ngài ngoại trưởng. Chính nhờ những
cựu chiến binh, chúng ta tìm ra được hướng đi bởi chính họ, những
người lính có đủ dũng khí để mưu cầu hòa bình.
Thương mại tự do ngày càng tăng lên và các sinh
viên, học giả nghiên cứu với nhau nhiều hơn. Hoa Kỳ đón sinh viên Việt
Nam nhiều hơn bất kỳ nước nào khác ở Đông Nam Á. Mỗi năm Việt Nam đón ngày
càng nhiều du khách Mỹ, trong đó rất nhiều người "Mỹ balô" trẻ. Họ tới 36
phố phường cổ Hà Nội, mua sắm ở Hội An, tham quan cố đô Huế. Là người Việt
và người Mỹ, chúng ta có liên hệ với nhau, như nhạc sĩ Văn Cao viết: “Từ
nay người biết quê người. Từ nay người biết thương người”. Trong cương vị tổng
thống, tôi muốn tiếp tục những sự phát triển trong quan hệ hai nước và với
quan hệ đối tác toàn diện, chính phủ hai nước ngày càng làm việc gần gũi với
nhau hơn bao giờ hết.
Mục tiêu của tôi trong chuyến thăm này là xây dựng
nền tảng ngày càng vững chắc hơn cho quan hệ hai nước trong nhiều thập kỷ tới.
Mối quan hệ lâu dài của hai đất nước chúng ta, bắt đầu từ Thomas Jefferson từ
hơn hai thế kỷ trước, bây giờ bắt đầu một chu kỳ mới. Chúng ta đã mất rất
nhiều năm, với nhiều nỗ lực hàn gắn quan hệ. Hôm nay, tôi muốn nói một
điều mà trước đây chúng tôi không thể tưởng tượng được: hai nước đã trở
thành bạn bè, đối tác của nhau.
Tôi tin rằng những bài học trong chiến tranh sẽ
là những bài học cho cả thế giới. Có những cuộc xung đột tưởng như không thể kết
thúc, không giải quyết được, nhưng giờ đây quan hệ Hoa Kỳ - Việt
Nam cho thấy có thể tạo ra sự thay đổi để có tương lai tốt đẹp hơn, nếu
chúng ta không chấp nhận làm tù nhân của quá khứ. Hòa bình bao giờ cũng tốt
đẹp hơn chiến tranh.
Sự tiến bộ, những giá trị tốt đẹp của con người cần
được thúc đẩy bằng hợp tác chứ không phải bằng chiến tranh hay xung đột.
Đây là điều mà chúng ta đã chỉ ra cho thế giới thấy.
Quan hệ đối tác giữa Mỹ với Việt Nam dựa trên những
điều căn bản: Việt Nam là một nước có chủ quyền độc lập ở Đông Nam Á và
không có quốc gia nào khác có quyền áp đặt lên ý chí hay quyết định vận mệnh.
Đồng thời Hoa Kỳ rất quan tâm đến sự thành công của đất nước Việt
Nam.
Quan hệ hợp tác toàn diện giữa Hoa Kỳ và Việt Nam vẫn
ở trong giai đoạn đầu. Vào thời điểm rời nhiệm vụ, tôi thấy rằng quan hệ này sẽ
còn tiếp tục dẫn dắt chúng ta trong nhiều thập kỷ tới.
Đầu tiên, chúng ta cần hợp tác nhiều hơn để tạo ra
và đem lại nhiều cơ hội và thịnh vượng thật sự cho người dân hai
nước. Chúng ta biết những nguyên liệu cần thiết cho nền kinh tế toàn
cầu trong thế kỷ 21.
Nền kinh tế và thương mại toàn cầu sẽ phát triển,
đặc biệt ở các nước có pháp quyền và có hành lang pháp lý đúng đắn. Người ta sẽ
không muốn bán hàng hay học hành nếu không biết mình được đối xử như thế nào.
Trong nền kinh tế dựa trên tri thức, công việc sẽ được giao cho những người có
tự do lựa chọn hay được trao đổi ý tưởng để sáng tạo.
Hợp tác toàn diện không chỉ là việc một nước mang
sang nước khác nguồn tài nguyên mà còn là đầu tư vào nguồn lực con người,
kỹ năng đào tạo và nhân tài, dù họ sống ở thành thị hay nông thông. Đây là hình
thức hợp tác mà Mỹ đề nghị.
Như tôi đã nói, ngày hôm qua, đội hòa bình (Peace
Corps) đã đến Việt Nam để tập trung dạy học. Thế hệ trẻ trước
đây của người Mỹ đến Việt Nam để chiến đấu, nhưng thế hệ sau của
chúng tôi lại đến để đóng góp cho sự phát triển, dạy học và làm sâu sắc
hơn tình hữu nghị hai nước.
Các công ty hàng đầu, đại học danh tiếng Mỹ đã đến
Việt Nam để hợp tác, đào tạo về khoa học công nghệ, toán học, y tế… Khi chào
đón công dân, thanh niên Việt Nam sang Mỹ, chúng tôi cũng thấy thế hệ
trẻ Việt Nam xứng đáng được hưởng những giá trị giáo dục tốt hơn ngay tại
quê nhà.
Do vậy, tôi rất vui mừng thông báo, mùa thu năm
nay Đại học Fulbright sẽ đi vào hoạt động tại TP.HCM. Đại học phi lợi nhuận,
chất lượng cao này sẽ cấp nhiều học bổng cho sinh viên Việt Nam. Các
sinh viên, học giả, nhà nghiên cứu sẽ tập trung vào các lĩnh vực như chính sách
công, quản trị doanh nghiệp, máy tính, hợp tác trong tất cả các lĩnh vực từ
thơ của Nguyễn Du, triết học của Phan Chu Trinh tới lĩnh vực toán của giáo
sư Ngô Bảo Châu…
Chúng tôi mong muốn sẽ kết nối những doanh nghiệp trẻ
Việt - Mỹ. Nếu có thể tiếp cận với công nghệ, kỹ năng cần thiết thì tôi tin rằng
không gì có thể cản bước các bạn, đặc biệt những phụ nữ tài năng, tiến bước đến
thành công. Chúng tôi tin rằng chất lượng tổng quan là điều cực kỳ quan trọng.
Từ thời đại Hai Bà Trưng đến nay, người phụ nữ tự
tin, mạnh mẽ luôn đóng góp rất lớn giúp đất nước Việt Nam phát triển. Điều
này rất rõ và khi đi khắp thế giới, tôi thường nói rằng gia đình, cộng đồng
hay đất nước sẽ thịnh vượng nếu như phụ nữ có cơ hội bình đẳng để thành công
trong trường học, việc làm... Điều này đúng ở khắp nơi, cũng như ở Việt Nam.
Chúng tôi tiếp tục làm việc để phát huy hết tiềm
năng của nền kinh tế Việt Nam, bằng hiệp định TPP. Hiệp định này giúp các bạn
buôn bán nhiều hàng hóa hơn cho thế giới, đồng thời thu hút nhiều đầu tư hơn.
TPP đòi hỏi phải có cải cách và Hoa Kỳ sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam tuân thủ đầy đủ
những cam kết.
Cá nhân tôi ủng hộ TPP vì nó giúp Việt Nam
không phải phụ thuộc thương mại với bất cứ quốc gia nào và có thể mở rộng thị
trường với nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ. Đồng thời, các bạn cũng có thể mua
được nhiều hàng hóa tốt hơn từ nước Mỹ.
TPP cũng sẽ giúp thúc đẩy hợp tác vùng, giúp các bạn
giải quyết các vấn đề bình đẳng kinh tế, thúc đẩy nhân quyền, giúp cho người
lao động có điều kiện lao động an toàn hơn. TPP giúp Việt Nam lần đầu tiên có
quyền thành lập các nghiệp đoàn lao động độc lập và ngăn chặn lao động trẻ em,
lao động cưỡng bức.
TPP cũng tạo ra môi trường bảo vệ tốt nhất cũng như
có tiêu chuẩn chống tham nhũng cao nhất so với bất kỳ thỏa thuận thương mại nào
trên thế giới. Tất cả chúng ta phải tuân thủ triệt để vì một nền kinh tế thịnh
vượng và một quốc gia an ninh.
Tất cả chúng ta phải nỗ lực đảm bảo và hợp tác trong
chương trình đào tạo an ninh chung. Trong chuyến thăm này của tôi, hai bên đã
nhất trí xây dựng niềm tin, tiếp tục công tác đào tạo, cung cấp thiết bị cho cảnh
sát biển, năng lực bảo vệ hàng hải cũng như cứu trợ nhân đạo trong thiên
tai.
Hôm qua, tôi đã tuyên bố Mỹ sẽ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm
bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, đảm bảo Việt Nam có thể có vũ khí cần thiết
để đảm bảo an ninh. Chúng tôi mong muốn thể hiện rõ Hoa Kỳ bình thường hóa toàn
bộ quan hệ với Việt Nam.
Thế kỷ 20 đã dạy cho tất cả chúng ta, kể cả Mỹ và Việt
Nam, rằng trật tự quốc tế, trong đó nền an ninh của chúng ta, đặt nền móng trên
những nguyên tắc cơ bản. Quốc gia dù lớn hay nhỏ đều có chủ quyền
riêng và phải được tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ. Các nước lớn không được bắt
nạt các nước nhỏ hơn; việc giải quyết các tranh chấp cần tiến hành hòa
bình. Các thể chế khu vực như ASEAN và cấp cao Đông Á cần được củng cố. Đó
là điều mà tôi tin tưởng, nước Mỹ tin tưởng và đó là kiểu hợp tác mà Hoa Kỳ
muốn đề nghị trong khu vực. Đây cũng là điều tôi nói khi là tổng thống
Mỹ đầu tiên đến thăm Lào trong năm nay.
Ở Biển Đông, chúng tôi không phải là một bên tranh
chấp, nhưng Hoa Kỳ khẳng định và đề cao quyền tự do hàng hải và hàng
không; tự do thương mại không bị cản trở; giải quyết các tranh chấp thông
qua pháp lý và luật pháp quốc tế. Nước Mỹ sẽ đưa tàu và máy bay đến bất kỳ
nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép, và ủng hộ quyền của các nước khác hành động
như vậy.
Cho dù chúng ta hợp tác chặt chẽ trong những lĩnh vực
tôi vừa đề cập, tôi cũng phải kể ra những khác biệt giữa hai chính phủ,
trong đó phải nói đến vấn đề nhân quyền. Một trong các điểm trong quan hệ
đối tác của chúng ta là giải quyết sự khác biệt về nhân quyền.
Tôi nói điều này bởi không có quốc gia nào hoàn hảo.
Sau hai thế kỷ lập nước, chúng tôi vẫn đang phải cố gắng đạt được những ý tưởng
chúng tôi đã đề ra khi chúng tôi lập quốc, như kinh tế có phần thâm hụt, thậm
chi cho chính trị, gia tăng bất bình đẳng thu nhập giữa những nhóm người, rắc rối
trong hệ thống pháp lý hình sự, phụ nữ vẫn chưa được trả lương bằng nam giới.
Nước Mỹ có những vấn đề của riêng mình và không hề
miễn nhiễm với những chỉ trích. Ngày nào chúng tôi cũng nhận được phê
bình, nhưng những lời chỉ trích giúp chúng tôi tranh luận cởi mở để nhận
biết sự chưa hoàn hảo và từ đó có thể phát triển hơn, thịnh vượng hơn và
công bằng hơn.
Việc mọi người có quyền đưa ra lời phê phán chính là
điều giúp xã hội tiến bộ hơn. Hoa Kỳ không muốn áp đặt cho Việt Nam, chúng tôi
tin rằng giá trị Hoa Kỳ mà chúng tôi nói là giá trị phổ quát được nêu
trong Hiến pháp Liên Hiệp Quốc như người dân có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí... Đây là những điều đã được nêu trong Hiến pháp Việt Nam.
Vấn đề của mỗi quốc gia là đều cố gắng thực hiện những
điều này, đảm bảo rằng những người trong chính phủ luôn trung thành với lý tưởng
này.
Trong những năm qua, Việt Nam có nhiều tiến bộ, và với
hiến pháp mới, nhiều vấn đề được cởi mở hơn, trong đó ngân sách được công khai
và cộng đồng có quyền tiếp cận thông tin nhiều hơn. Tôi cũng phải nói rằng Việt
Nam đã thực hiện cải tổ lao động và kinh tế chiếu theo hiệp định TPP và đây là
bước tiến tích cực. Và tương lai của Việt Nam sẽ được quyết định chính bởi người
Việt.
Mỗi quốc gia sẽ chọn con đường đi khác nhau. Hoa Kỳ
và Việt Nam có truyền thống, văn hóa, chính thể khác nhau, nhưng với tư cách là
người bạn của Việt Nam, cho phép tôi đưa ra quan điểm của mình. Tại sao quốc
gia càng thành công hơn khi những quyền phổ quát được tôn trọng. Khi có tự do
ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, khi người dân có thể tiếp cận mạng xã hội
mà không bị ngăn cản, sẽ giúp cho sự sáng tạo.
Phải biết rằng, nền kinh tế cần thử những ý tưởng
mới và đây là nguyên nhân ra đời của Facebook. Đó cũng là lý do ra đời của những
công ty lớn, bởi nó bắt nguồn từ những ý tưởng khác biệt và những ý tưởng này
phải được chia sẻ.
Việc những nhà báo, blogger có thể chỉ ra những
điểm bất công cho thấy sự tin tưởng vào chính quyền đã xây dựng niềm tin cộng đồng
rằng hệ thống pháp lý đang hoạt động tốt.
Khi các ứng viên tranh cử và tự do thực hiện chiến dịch
và cử tri có thể lựa chọn người lãnh đạo trong các cuộc bầu cử tự do minh bạch,
quốc gia sẽ mạnh hơn vì người dân hiểu rằng tiếng nói của họ được lắng nghe và
khi đó sẽ có những thay đổi nhẹ nhàng, đưa người mới vào trong hệ thống.
Tự do tôn giáo không chỉ giúp mọi người thể hiện đầy
đủ tình yêu và lòng trắc ẩn, điều vốn là cốt lõi giá trị của mọi tôn giáo. Và họ
thể hiện điều này thông qua các hoạt động cộng đồng như trường học, bệnh viện,
chăm sóc người nghèo...
Những quyền này không đe dọa tới sự ổn định mà thực
sự giúp củng cố cho nền tảng phát triển. Những điều này giúp nhân dân toàn thế
giới, không chỉ riêng Việt Nam, có thể xóa bỏ chủ nghĩa thực dân. Và tôi tin rằng
đảm bảo những quyền này là thể hiện đầy đủ nhất của sự độc lập, kể cả tại Việt
Nam, nơi các bạn tự nhận là chính phủ của dân, do dân và vì dân.
Việt Nam sẽ có cách làm khác Hoa Kỳ và cả hai nước
cũng sẽ hành xử khác với bất kỳ nước nào khác nhưng có những điểm chính mà tất
cả các nước phải thực hiện và cố gắng phát triển.
Trong tám năm ở cương vị tổng thống, nhìn nhiều quốc
gia khác trên thế giới, tôi thấy rất nhiều nước đang hành động cố gắng cải thiện
chính họ.
Hợp tác hoàn toàn có thể giúp chúng ta đối mặt thách
thức toàn cầu mà không quốc gia nào có thể đơn độc tự giải quyết. Việt Nam
cần bảo vệ các nơi như vịnh Hạ Long, Sơn Đoòng vì tương lai con cháu chúng ta.
Nước biển tăng sẽ làm ảnh hưởng đến các vùng ven biển
và Việt Nam cần thực hiện cam kết của Thỏa thuận Paris chống lại ảnh hưởng
của biến đổi khí hậu, chống lại ảnh hưởng xâm nhập mặn và đưa năng lượng sạch
đến những nơi như đồng bằng sông Cửu Long - nơi cung cấp thực phẩm lớn cho
thế giới.
Chúng ta cũng phải giúp đỡ cho các nước để xây dựng
năng lực về nhiều vấn đề như cải thiện y tế. Mỹ vui mừng khi đã giúp đỡ Việt
Nam tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc và giúp đỡ đào
tạo các binh lính cho lực lượng này.
Điều đáng nói, trước đây Hoa Kỳ và Việt Nam đứng ở
hai chiến tuyến nhưng giờ đây lại cùng hợp tác giúp các nước khác đạt
được hòa bình. Bằng mối quan hệ song phương, Hoa Kỳ và Việt Nam giúp tạo ra môi
trường quốc tế.
Viễn cảnh tôi vẽ ra không thể thực hiện một sớm một
chiều và không hề trơn tru; có thể sẽ gặp khó khăn trên đường đi, sẽ có lúc hiểu
lầm. Và khi đó, cần sự bình tĩnh, đối thoại chân thành, trong đó hai bên đều
hành động theo hướng tiếp tục thay đổi.
Nhìn vào lịch sử, thách thức mà chúng ta vượt qua,
tôi lạc quan tin vào tương lai quan hệ của hai nước chúng ta. Niềm tin của tôi
là nhờ nền tảng dựa trên tình hữu nghị và niềm cảm hứng, như Trịnh Công
Sơn viết, “nối vòng tay lớn”, để mở tấm lòng, để thấu suốt trái tim
mình.
Tôi nghĩ tới những người Mỹ gốc Việt thành công
trong mọi lĩnh vực, từ bác sĩ tới nhà báo... Trong số này, có một người viết
thư cho tôi nói rằng nhờ ơn trời, anh ấy đã thực hiện được giấc mơ Mỹ đồng thời
nói rằng tự hào vì là người Mỹ và mang dòng máu Việt. Hôm nay, anh ấy có mặt ở
đây, nơi chôn nhau cắt rốn, bởi vì anh ấy có "nguyện vọng cá nhân" muốn
giúp đỡ những người còn khó khăn tại Việt Nam.
Tôi nghĩ đến một thế hệ trẻ Việt Nam, rất nhiều
người có mặt ở đây sẵn sàng để lại dấu ấn trên trường quốc tế. Vận mệnh đang nằm
trong tay các bạn. Đây là thời khắc của các bạn và hãy chọn tương lai mà
các bạn muốn.
Tôi muốn các bạn biết rằng Hoa Kỳ luôn ở kề bên các
bạn, như một đối tác và như một người bạn.
Nhiều năm sau nữa, khi càng có nhiều người Mỹ và Việt
học tập cùng nhau, làm việc cùng nhau, sát cánh với nhau giúp tăng cường nhân
quyền và bảo vệ địa cầu, tôi hi vọng các bạn nhớ lại thời khắc này và lấy cảm hứng
từ viễn cảnh tôi vừa vẽ ra, hay nói một cách khác, quen thuộc hơn với các bạn,
được trích từ Truyện Kiều: "Rằng trăm năm cũng từ đây. Của tin gọi một
chút này làm ghi”.