
Nhà thơ Bàng Sỹ Nguyên vừa qua đời tại TPHCM, hưởng
thọ 92 tuổi. Nhà thơ Bàng Sỹ Nguyên trong ký ức nhà văn Nguyễn Đình Chính: “Thi
sĩ họ Bàng nói về bài Hà Lạc trong Kinh Dịch, nói về đất đai, phong thuỷ, về một
thế giới tâm linh bí ẩn ông cắt nghĩa vì sao đúng 50 năm sau, năm 2001 tôi lại
tìm thấy mộ mẹ tôi giữa bạt ngàn nói rừng hoang vu Nà Coọc… Và ông nói về
nguỵ biện luận của người Tàu ngày xưa. Ông nói về cách vẽ tranh bằng 5 ngón tay
và cách xử dụng các móng tay để vuốt mảnh nét vẽ. Và cuối cùng ông nói về
thơ hậu hiện đại. Đêm khuya cuối năm. Bãi sông thông thống. Gió lạnh gào rú. Ngọn
lửa bùng cháy dữ dội. Thi sĩ họ Bàng tề chỉnh com lê trắng, khăn phu la sành điệu.
Râu vểnh ngược. Cao hứng ông dạo thế võ đá tung thanh củi tàn lửa bay tán loạn.
Rồi ông quỳ xuống cất giọng ư ử hát một bài hát của người Nhật Bản. Ông hát bằng
tiếng Nhật. Dù chẳng biết một nửa chữ Nhật nhưng tôi nghe rõ lời khóc than của
một người trai Nhật Bản đau đớn tiếc thương người tình của mình đã bị kẻ thù
chém chết bên bờ suối trong rừng sâu…”
ĐÃ XA KHÚC NHẠC TRẦM HỒN NGÂY DẠI
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH
Tôi được biết lão thi sĩ Bàng Sĩ Nguyên qua
cha tôi – nhà văn Nguyễn Đình Thi từ rất lâu rồi. Vào một ngày giáp tết
năm 1982, ông cùng với cha tôi, nhà văn Nguyễn Đình Thi lên tận bản Nà Coọc,
Chiêm Hoá, Tuyên Quang đi tìm mộ mẹ tôi mất từ năm 1951.
Tại sao cha tôi lại mời ông đi cùng, hay là ông tự
nguyện đi với cha tôi. Tôi không biết. Chỉ biết khi vào đến bản Nà Coọc ông cứ
chạy ngược chạy xuôi từ đầu bản đến cuối bản, tay cầm một mảnh giấy nhỏ ghi
chép hình thế phong thổ của vạt rừng để cố tìm vị trí ngôi mộ mẹ tôi đã mất
tiêu lẫn vào cây cỏ nui rừng. Đêm đó, hai ông tạt vào nghỉ nhờ trong một ngôi
nhà sàn ọp ẹp của một cụ già người Thổ cuối bản. Suốt đêm hai ông ngồi nói chuyện
bên bếp lửa bập bùng giữa nhà vừa nướng ngô vừa nói chuyện. Hai ông nói về cuộc
tranh luận phê bình thơ không vần trong kháng chiến chống Pháp. Hai ông đều đồng
ý với nhau cuôc đấu đá đó chỉ đơn giàn là một cuộc đối đầu giữa
trào lưu thơ Mới trước Cách mạng và trào lưu thơ mới không vần non trẻ vừa nẩy sinh trong cuộc
kháng chiến trường kì. Rồi ông Bàng cứ nói mãi về một ông cán bộ nhà thơ nào đó
cứ đó rất ác tâm cố bẻ cuộc đối đầu nghệ thuật với nghệ thuật này sang thành cuộc
đối đầu giữa nghệ thuật với chính trị.
Khi hăng lên, hai ông nói toàn tiếng Pháp ( chắc là không muốn cho tôi hiểu).
Phải đến một ngày giáp tết 24 năm sau, năm 2007, tôi
lại được ngồi cạnh ông bên đống lửa cháy đùng đùng trên bãi sông Hồng. Vẫn cái
mùi ngô nướng rất thơm không thể nào quyên được. Cha tôi đã mất, ông không còn
sống để nói tiếng Pháp thơ ca với thi sĩ họ Bàng. Vì vậy thi sĩ họ Bàng đành ngồi
nói chuyện với tôi. Ông nói chuyện với tôi mà nhiều lúc tôi có cảm giác «như
đang nói chuyện với ông Thi đang bay lượn ở trên trời. Và suốt tối hôm đó thi
sĩ họ Bàng thỉnh thoảng lại xổ ra hang tràng tiếng Pháp. Ông hăm hở nhắc lại một
cái me xừ nhà thơ cán bộ xừ Huế nào đó rất
thấp kém về nhân cách chỉ giỏi ném đá dấu tay đứng đằng sau xúi bẩy anh em văn
nghệ sĩ đấm đá lẫn nhau. Vẫn chỉ me xừ chứ không nói toạc tên ra. Lịch lãm lắm.
Ông xuýt xoa nhắc tới cha tôi. Mười bẩy tuổi anh Thi đã đủ tiếng
Pháp để viết triết học. Thông minh nổi tiếng.
Rồi thi sĩ họ Bàng nói về bài Hà Lạc trong Kinh Dịch,
nói về đất đai, phong thuỷ, về một thế giới tâm linh bí ẩn ông cắt nghĩa vì sao
đúng 50 năm sau, năm 2001 tôi lại tìm thấy mộ mẹ tôi giữa bạt ngàn nói rừng
hoang vu Nà Coọc… Và ông nói về nguỵ biện luận của người Tàu ngày xưa.
Ông nói về cách vẽ tranh bằng 5 ngón tay và cách xử dụng các móng tay để vuốt mảnh
nét vẽ. Và cuối cùng ông nói về thơ hậu hiện đại. Đêm khuya cuối năm. Bãi
sông thông thống. Gió lạnh gào rú. Ngọn lửa bùng cháy dữ dội. Thi sĩ họ Bàng tề
chỉnh com lê trắng, khăn phu la sành điệu. Râu vểnh ngược. Cao hứng ông dạo thế
võ đá tung thanh củi tàn lửa bay tán loạn. Rồi ông quỳ xuống cất giọng ư ử hát
một bài hát của người Nhật Bản. Ông hát bằng tiếng Nhật. Dù chẳng biết một nửa
chữ Nhật nhưng tôi nghe rõ lời khóc than của một người trai Nhật Bản đau đớn tiếc
thương người tình của mình đã bị kẻ thù chém chết bên bờ suối trong rừng sâu
Thi sĩ họ Bàng là ai vậy? Sinh năm 1925
ở Hà Nội. Mang họ Bàng, nhưng lại là hậu duệ đích tôn của hoàng tử thứ ba Lý
Hùng Tích Hoài Nam Vương trong những ngày diệt vong cuối cùng của một triều đại
đổ nát. Đã hơn 700 năm trôi qua rồi, thay tên đổi họ để tránh cái họa chu di cửu
tộc mà nay cũng chỉ còn như một truyền thuyết. Tóc trắng, râu trắng, vóc hạc
mình tiên, thi sĩ họ Bàng dù là ngồi lù xù nướng khoai bên bếp lửa đêm cận
giao thừa, chân tay lấm lem, râu tóc dựng ngược mà thỉnh thoảng vẫn loé lên cái
cốt cách vương giả, kiêu hãnh khác người.
Những năm trước Cách mạng tháng 8
-1945, Bàng Sĩ Nguyên học chữ Hán, chữ Anh, chữ Pháp, chữ La Tinh. Ông đọc
Immanuel Kant, Francis Bacon, Schopenhauer, Heiderger, Spencer…và hoạt động
trong các tổ chức tuyên truyền Chủ nghĩa Mác ở Hà Nội. Từ năm 1946, ông đi bộ đội
làm báo Xông Pha, báo Dân Quân Việt Bắc, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các ông
Nguyễn Khang, Nguyễn Đông. Ông đã từng nhận các cương vị: cán sự kiểm tra, cán
bộ tuyên huấn bộ tư lệnh và là chính trị viên kiêm đoàn trưởng đoàn văn công
quân đội mà Nguyễn Đức Toàn là cấp phó của ông khi Hoàng Cầm đã thôi việc. Tới
năm 1956, ông được Ban tổ chức Trung ương Đảng điều động ra ngoài quân đội cùng
Hoàng Trung Thông, Hữu Loan, Đào Vũ, Nguyễn Đình Thi…thành lập báo Văn Nghệ
và tiếp sau là Tạp chí Văn nghệ.
Ông cũng là một trong 37 hội viên sáng lập ra Hội
Nhà văn Việt Nam. Khi thành lập trường viết văn ở Quảng Bá, ông lại được điều về
phụ trách Phó hiệu trưởng. Năm 1985, tròn 60 tuổi vào Sài Gòn sống một mình, về
hưu, vẽ tranh, giảng triết học và viết lý luận nghệ thuật, mở phòng tranh và
triển lãm tiếp tục nghề họa từ phòng tranh nguyên tác tại Giảng Võ, Hà Nội từ
năm 1978, khi ấy được Tùng Giang, Trần Độ, báo chí và các Hội nghệ thuật đều ủng
hộ.
Từ năm 1956 đến 1985, Bàng Sĩ
Nguyên lần lượt cho xuất bản 7 tập thơ. “Khúc nhạc trầm hồn ngây dại” in năm
2006 là tập thứ 8 sau đúng 20 năm tự mình treo bút.
Non một thế kỷ nay, thơ ca thế giới
chuyển động ào ạt chống lại sự chùng lỏng của chủ nghĩa tình cảm và sự man trá
đạo đức giả. Bắt đầu từ trào lưu Duy hình tượng, tới những thể nghiệm trường
phái Hiện đại chủ nghĩa, rồi Chủ nghĩa Hậu hiện đại với liên tiếp các khuynh hướng
Hình tượng sâu tận dụng triệt để những sáng tạo từ nguồn tâm linh, vô thức.
Khuynh hướng Ngẫu nhiên tìm lối thoát ở tinh thần Thiền Tông. Khuynh hướng Tự
thú, khuynh hướng Thơ trình diễn với những văn bản thơ được sự hỗ trợ của các
phương tiện điện tử tối tân và mỹ thuật khái niệm rầm rộ trình diễn trên
sân khấu…Phải làm một cuộc điểm danh thiếu sót và khiên cưỡng như vậy, là muốn
nói ở đây tập thơ này: “Khúc nhạc trầm hồn ngây dại” có một sự liên hệ và nhập
cuộc, hoà trộn kỳ lạ với dòng chảy của thơ ca thế giới hiện đại. Bây giờ ta biết
gọi Bàng Sĩ Nguyên là gì? Một chàng thi nhân 20 tuổi ngời ngời minh triêt và ào
ào trực cảm dục vọng xuân thì...
Lâu nay chúng ta vẫn có thói quen
ngợi ca sự sáng tạo từ ý thức chói sáng mà lãng quên những sáng tạo nghệ thuật
đích thực chỉ có thể chồi ra từ vô thức mù mờ. Chúng ta quá tin cậy vào sự nhận
biết thế giới qua những tư tưởng tự tin đến khô kiệt, qua kinh nghiệm chủ quan
đến ngạo mạn và các giác quan khoa học dửng dưng, mà phũ phàng với sự tìm kiếm
hiện thực từ những nhận thức trực khởi, từ những chiêm nghiệm du già, từ những
ám ảnh tâm linh, những mặc cảm bí ẩn của tâm hồn người nghệ sĩ. Đó là một tai
hoạ trời đày. Nốt nhạc trầm của nỗi buồn chẳng hề lạc quan. Hồn ngây dại của một
trí tuệ minh triết mỏi mệt. Thơ Việt Nam hiện đại có thể tìm thấy một lối thoát
bắt đầu từ những khúc nhạc trầm, từ những hồn ngây dại chăng? Sẽ còn bao nhiêu
lối thoát nữa và của ai và bao giờ?
Vượt lên sự mưu danh cho chính
mình. “Khúc nhạc trầm hồn ngây dại” là tuyên ngôn của Bàng Sĩ Nguyên về nghệ
thuật, nếu không phải hay là chưa thể dành cho trùng điệp đám đông thì, cũng
đích thực dành cho chính ông và những người mấy chục năm nay lặng lẽ đứng sát
bên cạnh ông.