Thời trẻ, ông trải qua nhiều nghề để kiếm sống. Nhưng có lẽ
nghề gõ đầu trẻ là nghề bám đuổi dai dẳng với
ông hơn cả. Nghiệp dạy học như cũng để ông gần với chữ nghĩa nhiều hơn.
Ngoài dạy trẻ học chữ quốc ngữ, thầy giáo tư thục Lâm Thanh Lang- tên thật của
nhà thơ Yến Lan, thường đọc thơ Đường, thơ Pháp cho lớp học trò nghe; giảng giải, phân tích và
đưa các em dần tiếp cận vẻ đẹp sâu lắng
của Đường thi và chất đắm say lãng mạn của thơ Pháp. Năm hai mươi tuổi, ông
cùng Chế Lan Viên ôm hòai bão xuất bản môt tờ báo riêng lấy tên là tờ Tiếng
địch, hòng lấy đó làm nơi ngôn luận phát biểu, tuyên ngôn quan niệm của mình về
thi ca nghệ thuật. Tiếc là tờ Tiếng địch mới phát hành được một số, thì hai
chàng thi sỹ hết tiền không in nổi báo số báo thứ hai nữa. Tuy tờ báo bị chết
yểu, nhưng đã đủ tạo tiếng vang trong
văn đàn báo giới. Nó phản ánh ý chí, khát khao của những con người luôn muốn
tìm cái mới, không chấp nhận cuôc sống buồn tẻ, nhàm chán của lớp trí thức trẻ
thời bấy giờ.
HỒN THƠ Ở BẾN MY LĂNG
VŨ TỪ TRANG
Tôi có cơ
duyên thường được gặp gỡ ông vào những năm trước khi ông chuyển về sinh sống ở
quê Bình Định. Ngày ấy gia đình ông ở căn phòng tầng hai ngôi nhà cổ phố Hàng
Quạt. Còn tôi đương làm phóng viên cho một tờ báo ở phố Hàng Gai. Hễ khi rảnh
việc, tôi lại men theo ngõ nhỏ xuyên tắt từ phố Hàng Gai sang phố Hàng
Quạt để hầu chuyện ông.Nói là hầu
chuyện, nhưng thực ra có khi cả buổi ngồi lặng lẽ uống trà với ông. Ông vốn
không phải là người cao đàm khoát luận gì, tính ông ưa lặng lẽ. Hễ bốc lên, ông
nói một thôi một hồi rồi lại lặng thinh. Có khi ông lai rủ rỉ rù rì đọc thơ
khúc trầm khúc bổng. Con người ông không qúa vồ vập, nhưng lại không phải là
người lạnh nhạt. Ở ông luôn toát lên vẻ dễ gần, dễ thân thuộc. Ông là người cần
cù chịu khó. Hầu như chưa lần nào đến tôi thấy ông ngồi yên. Khi thì thấy ông
ngồi viết ngồi đọc, khi thấy ông xếp sắp
mấy tập vở đang viết dở, khi thấy ông đang khâu vá vật gì đó, khi thấy ông đang
say mê tưới tắm cho khóm hồng ngoài ban công. Cái ban công nho nhỏ mà hình như
đã hỏng cả tay vịn lan can, nhưng hoa hồng thì luôn nở rất đẹp. Tôi biết ông
yêu hoa hồng lắm. Loài hoa kiêu sa ấy ai chẳng mê, nhất là ông lại là thi sỹ,
chẳng thế mà năm 1968, ông có tập thơ với tên sách “ Lẵng hoa hồng”.
Với tôi, thơ của ông
là một thứ ma mị. Ngay từ thưở thập thững vào nghiệp văn chương, tôi đã chép
trong sổ tay nhiều bài thơ của ông . Ngày đó thơ của ông không được phổ biến
rộng. Nhưng những bài “Lại về tỉnh nhỏ”, “Phù Ly”, nhất là bài “Bến My Lăng”
thì ám ảnh tôi vô cùng. Tôi hình dung cái bến sông với con đò âm âm u u, như
trôi trong cô tịch,
Bến My
Lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu
hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng
thì đầy rơi vàng trên mặt sách
Ông
lái buồn để gió lén mơn râu.
Tôi đã tự hỏi không biết nhà thơ là ông lão lái thuyền kia?
Hay là chàng kỵ mã áo ngọc lưu ly nhúng đầy trăng? Hay là ngọn gió đìu hiu tịch
mịch? Tôi biết đó là tâm trạng cô đơn vô cùng của ông giữa cảnh đời vừa thực
vừa rất nhiều chất liêu trai.
Mảnh đất Bình Định của ông vốn là đất võ, nhưng nó lại vô
cùng lãng mạn với sông Côn và biển Tam Quan xanh mát bóng dừa. Chính mảnh đất
thành Đồ Bàn đã nảy
sinh ra nhóm tứ hữu,
mà họ ngạo mạn , tự tin phong cho nhau danh hiệu tứ linh: long-lân-quy-phượng.
Đó là tứ kiệt trong văn chương nước Việt: Hàn Mặc Tử-Yến Lan- Quách Tấn- Chế
Lan viên.
Theo ông kể, sinh thời nhóm Bàn thành tứ hữu này sống rất
thân thiết và bình đẳng. Cái mà họ tôn thờ cao nhất, ấy là thi ca. Thi ca nó là
cõi đền đài cho họ gắn bó nhau và cùng soi vào đó để vươn tới vẻ đep thánh
thiện. Nhà thơ Yến Lan còn lưu giữ mãi ấn tượng cuộc gặp gỡ giữa ông và thi sĩ
Hàn Mặc Tử.Ấy là buổi sáng ngày chủ nhật giữa năm 1930, khi ông đang mải ngồi
chép thơ mình mới sáng tác vào cuốn sổ tay bên mái chùa Ông quê hương ông, thì
đúng lúc nhà thơ Hàn Mặc Tử đưa nhà văn Nguyễn Công Hoan vào viếng cảnh chùa.
Hàn thi sỹ nhìn thấy chàng trai mải chép thơ và thế là họ thành bạn của nhau.
Theo tuổi khai sinh, Hàn Mặc Tử sinh năm 1912, Yến Lan sinh năm 1916, Chế Lan
Viên sinh năm 1920 và Quách Tấn sinh năm 1910. Tuy tuổi tác chênh lệch, vậy mà
họ rất tri âm tri kỷ. Thi ca là cây cầu nối
họ khăng khít lại với nhau. Sau buổi vào Quy Nhơn, tới ngôi nhà 20 Khải
Định thăm thi sỹ họ Hàn, con người tinh
thần của Yến Lan như thay đổi hẳn. Những vần thơ bảng lảng, mà trau chuốt và
lãng mạn của ông như hồi hộp và quặn thắt hơn. Thưở ấy, nhóm Bàn thành tứ hữu
xuất hiện đã gây tiếng vang và làm
nghiêng ngửa nhiều nhóm thi ca đang nở rộ trong văn đàn ba miền Bắc Trung Nam.
Đấy là thời hưng thịnh của thi ca nước
nhà. Vị thế nhà thơ được đề cao hết mức.Đấy là thời mà ông Yến Lan cũng như các
thành viên trong Bàn thành thi hữu say đắm tạo ra những vần thơ mới làm quyến
rũ và đắm say bao lòng người. Lòng say mê sáng tạo với ông như khó có độ nào
hơn cái thời đận ấy. Hễ ông và bạn bè viết được câu thơ, bài thơ nào mới là vội
tìm nhau đọc cho nhau cùng nghe. Lầu cửa Đông thành Bình Định ngày ấy là nơi
chiều chiều họ cùng đến để gặp gỡ nhau, đàm đạo văn chương. Bàn dân thiên hạ
nom thấy bốn chàng trai Bàn thành tứ hữu là như thấy bốn cánh chim thi ca tung
cánh bay trong con mắt tự hào và thán phục của họ .
Thời trẻ, ông trải qua nhiều nghề để kiếm sống. Nhưng có lẽ
nghề gõ đầu trẻ là nghề bám đuổi dai dẳng với
ông hơn cả. Nghiệp dạy học như cũng để ông gần với chữ nghĩa nhiều hơn.
Ngoài dạy trẻ học chữ quốc ngữ, thầy giáo tư thục Lâm Thanh Lang- tên thật của
nhà thơ Yến Lan, thường đọc thơ Đường, thơ Pháp cho lớp học trò nghe; giảng giải, phân tích và
đưa các em dần tiếp cận vẻ đẹp sâu lắng
của Đường thi và chất đắm say lãng mạn của thơ Pháp. Năm hai mươi tuổi, ông
cùng Chế Lan Viên ôm hòai bão xuất bản môt tờ báo riêng lấy tên là tờ Tiếng
địch, hòng lấy đó làm nơi ngôn luận phát biểu, tuyên ngôn quan niệm của mình về
thi ca nghệ thuật. Tiếc là tờ Tiếng địch mới phát hành được một số, thì hai
chàng thi sỹ hết tiền không in nổi báo số báo thứ hai nữa. Tuy tờ báo bị chết
yểu, nhưng đã đủ tạo tiếng vang trong
văn đàn báo giới. Nó phản ánh ý chí, khát khao của những con người luôn muốn
tìm cái mới, không chấp nhận cuôc sống buồn tẻ, nhàm chán của lớp trí thức trẻ
thời bấy giờ.
Ông là người sớm nổi tiếng. Tập thơ đầu tay “Bến My Lăng”
của ông tuy chưa được xuất bản, thơ ông mới in rải rác trên các báo Phụ nữ,
Tiểu thuyết thứ Năm, Nghệ thuật... vậy mà khi Hoài Thanh- Hoài Chân soạn cuốn
Thi nhân Việt Nam đã phải viết “Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây
mù. Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng dần lâu cơ hồ ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ
những con đường chảy, êm như những dòng sông, và nhất là cái vừng trăng vẫn
thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định.
Ngoài ra chịu không biết sau màn mây mù ấy có gì không.” Bài viết vào tháng 10
năm 1941, ấy là khi nhà thơ mới có hai mươi nhăm tuổi. Thơ của ông, cũng như
thơ của các nhà thơ trong nhóm Bàn thành tứ hữu sớm khẳng định giọng điệu,
phong cách sáng tạo của phong trào Thơ Mới. Nói đến thơ mới, là không thể không nói đến thơYến
Lan .
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ
trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
Để
thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi
đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Cái gốc muôn đời của thơ, ấy là cảm xúc. Cảm xúc trong thơ
Yến Lan bao giờ cũng trào dâng và quặn thắt. Tuy nhiên nó lại như tinh sạch
quá, kỹ càng quá.Có người nói, đó là thế
mạnh trong thơ ông, và âu cũng là cái giới hạn trong thơ ông chăng?!.
Bài “Nhớ”, trong tập “ Bến My Lăng” và cũng được in trong
tập “Thi nhân Việt Nam” cũng có những câu thơ kỹ càng tới mức kỳ tài.
Tôi nhớ trên đường bao vảy lá
Mà
thu vàng rụng giữa ngày khô !
Những vảy lá và thu vàng rụng ngày khô, nghe như hơi hướng
thơ xưa. Nhìn chung, thơ Yến Lan cũng như thơ
Quách Tấn, có phảng phất hơi hướng của mùa cổ điển. Đó là sự ảnh hưởng
trong kết cấu và trong âm hưởng cảm xúc.Tuy nhiên, thơ ông đôi lúc lại có những
nét tung tẩy, buông bắt rất đáng yêu .
Tỉnh nhỏ
đìu hiu
mặt trời chiều
ngủ trên mái rạ
...
Tỉnh nhỏ
cô
em
nằm xem
kiếm hiệp
Nhưng phải ghi nhận những vần thơ ông viết về quê hương đã đạt
mức huyền ảo .” Trời Bình Định có thương em lẻ chiếc. Em nằm thương xanh biếc của trời buồn”.Những vần thơ
đắng đót mà như chỉ ở ông mới có. Phải chăng nó là cảnh ngộ riêng của ông?!Bài
thơ tứ tuyệt “Khi chị đi lấy chồng” như
xoáy vào tâm gan người đọc.
Khế chua chị nấu lá mồng tơi
Em ước cùng ăn đến trọn đời
Tang mẹ mãn rồi, bà mối giục
Chị đi- bát đũa cũng mồ côi.
Sinh thời, ông đã đọc đến mấy lần bài thơ này cho tôi được
nghe ở căn gác nhỏ 37 Hàng Quạt mà ông và gia đinh ông đang trú ngụ.. Đấy là
thời bài thơ chưa được công bố, tình hình đất nước còn chia cắt. Phố huyện An
Nhơn khi ấy ông chưa được trở về và ông cũng chưa hình dung
bao giờ ông được trở về. Kiếp sống xa quê cứ day dứt tâm khảm, làm ông ông
không mấy khi được thanh thản. Nó như không nói được thành lời trước bạn bè, mà
đôi khi chỉ thấy thốt lên trong thơ như một tiếng nấc. Tôi đã mấy lần được
chứng giám cảnh ông đang đọc thơ cho bạn nghe, bỗng ông quay mặt ra phía khác,
tay gạt dòng nước mắt. Tôi hiểu, đấy là khi thơ đã nói thay ông được rất nhiều
tâm trạng.
Tập thơ “Những ngọn đèn”, xuất bản năm 1957, là tập thơ hay
của ông. Tuy nhiên, vì thời điểm tập thơ ra đời không được đúng lúc, nên ngay
thời đó ông bị phê bình là “tư tưởng tiểu tư sản”. Như để giã từ “tính giai
cấp”, ông đã tự chuyển hóa bằng cách lăn xả vào cuuộc sống. Những ngả đường đất
nước, những vạt đồi nông trường, những cánh đồng hợp tác xã đã cuốn hút ông và
đem đến cho ông những cảm xúc tươi rói. Những bài “ Bài thơ hợp tác thôn tôi”,
“ Theo gió xuân lên biên giới”... là kết quả của những chuyến đi thực tế và lăn
xả vào cuộc sống của nhà thơ.Trong con người thi sỹ của ông, thì thái độ công
dân của ông luôn rõ ràng. Thời chiến tranh chống Mỹ, ông có những bài thơ hay
về chiến thắng Bình Giã, Vạn Tường. Ông là người có sở trường viết thơ tứ
tuyệt. Phải chăng thể loại thơ này nó hợp với những cảm xúc cô đọng, súc tích
và có chút hoài niệm?! Trong nhóm Bàn thành tứ hữu, có hai nhà thơ cự phách của
thể thơ tứ tuyệt, ấy là Quách Tấn và Yến Lan. Sinh thời, nhà thơ Yến Lan rất
phục tài thơ tứ tuyêt của Quách Tấn. Tôi nhớ có lần được nhìn ông trịnh trọng
cởi mấy lớp giấy bóng kính để lấy ra tập thơ tứ tuyệt của bạn ông là Quách Tấn gửi tặng . Tôi không tiện hỏi là đường
dây nào đã chuyển ấn phẩm thơ in từ Sài Gòn thời Ngụy ra tặng ông. Tôi lơ mơ
hiểu rằng tập thơ được chuyển đường vòng từ Sài Gòn sang Pa-ri và từ Pa-ri gửi
về Hà Nội và qua rất nhiều kiểm duyệt nhiêu khê. Tôi được đọc ngấu nghiến mấy
chục bài thơ tứ tuyệt và bái phục ông Quách Tấn. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ
mang máng, đó là những vần thơ thương nhớ quê hương và nỗi cảm khái của người ưu
thời mẫn thế.Tôi còn nhớ nhà thơ Yến Lan
vừa đọc vừa giải thích cho tôi nghe về một địa danh nào trong thơ, hoăc một vài
ngôn ngữ địa phương. Khi đó, có bài tôi chưa hiểu lắm, hoặc không hợp tâm trạng
mình; nhưng tôi thấy bài nào cũng toát lên lòng yêu nước, yêu dân tộc.Tôi còn
nhớ dáng vẻ vừa suýt soa nhớ bạn, phục thơ bạn; và động tác vừa phải dấu diếm
rất tội nghiệp của ông khi ấy.Bây giờ, thơ Quách Tấn đã được in ấn công khai và
đầy đủ. Tôi càng thấy tình yêu quê hương sứ sở tới mức xót xa của người thi sỹ
tiêu biểu của mùa cổ điển trong nhóm Bàn thành tứ hữu dạo nào và càng thấy tình
bạn thủy chung khăng khít của họ.
Sau ngày đất nước thông nhất, ông vội khăn gói cùng người vợ
hiền đáp tầu hỏa về quê.Có người hỏi: sao ông không vào Sài Gòn hay ra Đà Nẵng
sinh sống cho thuận tiện? Ông không trả lời, mà mấy ai hiểu tâm trạng của ông.
Với ông, quê hương là nỗi niềm canh cánh bao năm trời. Dòng sông, mảnh vườn,
mái nhà và cái bến sông My Lăng như vẫn âm âm u u trong tâm cảm của ông đã mấy
chục năm trời .Đấy là bến sông ảo vọng, nhưng nó như có đời sống thực sống cùng
suốt cuộc đời ông . Tôi hình dung ngày trở về cố hương của ông, sau phút hàn
huyên với người thân sau bao năm xa cách, hẳn ông lại đi tìm cái bến sông mơ hồ
trong cảm xúc đó. Tôi không hình dung nổi buổi hội ngộ giữa ông và nhà thơ
Quách Tấn nó chan chứa cảm xúc bao nhiêu?! Nhưng tôi chắc hẳn rằng hai ông sẽ
dành cho nhau những giây phút bình yên nhất, để đọc cho nhau nghe những vần thơ gan ruột của mình; cùng nhớ lại
thời trai trẻ tung hoành, cùng ôn lại kỷ niệm một thưở của Bàn thành tứ hữu như
mới ngày nào, mà nay hai mái đầu đã bạc.
Bình tĩnh
đọc laị một cách hệ thống những sáng tác của nhà thơ Yến Lan, thì thấy mảng thơ
đề tài quê hương luôn nặng trĩu trong tâm cảm ông. Đương nhiên, với bất kỳ nhà
thơ nào, thì quê hương vẫn là niềm thương nhớ, nhưng tôi thấy nỗi nhớ quê của
ông như luôn đầy, nặng. Không kể những tập thơ khác, riêng tập thơ tứ tuyệt của
ông đã có hơn trăm bài ông viết về quê hương và những người thân ở quê hương
ông.
Có thể dẫn
ra bất kỳ bài thơ nào cuả ông đều thâý nỗi niềm âý.
Khói quyện đầu ô, nửa
xóm nhòa
Tàu dừng đổ
khách, sắp rời ga
Đồng hương kẻ
xuống, người ra đón
Mình suốt đời
đi chửa tới nhà.
(
Tàu ngang quê cũ )
Hoặc là :
Đò ngang gối
bãi, bóng trăng lồng
Chợ khuất
sương chiều mắt trẻ trông
Ta ước như em còn có mẹ
Dẫu cùng đăm
đắm một ven sông
( Chờ )
Bến My
Lăng, cái bến tưởng tượng trong tâm trí của ông, sau hơn ba mươi năm xa cách, nay
gặp lại:
Thăm quê về
lại bến trăng xưa
Còn tưởng đêm
nay đứng gọi đò
Chưa kịp nhớ
ra lòng có hẹn
Chèo ai cập
bến đã vang khua.
( Qua bến My Lăng )
Tâm hồn
ông vốn đan chéo tâm sự. Ông thèm khát về quê, vậy mà khi ở quê rồi, ông lại
thao thức nhớ ngôi nhà ngoài Hà Nội một thời ông đã sống :
Nghe tràn gíó bấc chuyển
vào đông
Tìm hướng nhà
xưa rợp cúc, hồng
Đâu nỡ trách
quê tình giục gĩa
Chỉ lo con trẻ
bỏ hồng không.
(
Nhớ hoa hồng nhà 37 Hàng Quạt )
Cái tâm
trạng vừa bảng lảng vừa quặn thắt, vừa trào dâng vừa lắng đọng, nó như đi xuyên
suốt chặng đường sáng tạo thi ca của ông, tạo ra phong cách thơ riêng của ông.
Ông có
một gia đình yên ả. Tình cảm vợ chồng tao khang , tôi như nhận rõ được ở gia
đình ông. Những ngày gia đình ông còn ở Hà Nội, hễ đến bất kỳ khi nào, tôi đều
nhận cảm được điều đó. Bà Lan, người vợ hiền thục của ông không phải người Huế,
vây mà tôi luôn ngỡ bà là người Huế. Phải chăng phong cách sống của bà luôn gợi
cho tôi liên tưởng đó. Bóng dáng người vợ dịu dàng, khuôn phép như thường
thoáng hiện trong thơ ông. Bạn bè ông vẫn kể giai thoaị thời trai trẻ có hai
người con gái mà ông hết mực qúy mến, đấy là cô Yến và cô Lan. Ấy rồi cô Lan
thành vợ ông và ông đã lấy tên hai người con gái từng ảnh hưởng tới đời sống
tinh thần của ông ghép thành tên bút danh Yến Lan. Thửơ ông sinh thời, tôi đã
mấy lần định hỏi xác minh lại điều này, vậy mà tôi không dám, vì thâý giai
thoại có gì cao đẹp qúa. Những năm tháng cuối đời ông ốm đau liên miên. Trong
ngôi nghà nhỏ ở ven chợ An Nhơn, người ta thường thấy cảnh bà bưng bát thuốc
mời ông uống cho giảm bệnh, một tay bà cầm quạt giấy phe phẩy cho ông qua cơn
nóng bức. Đã vậy, bà còn là người thư ký riêng, cặm cụi chép những vần thơ ông
vừa sáng tác. Tuyển tập thơ tứ tuyệt của ông vừa được Nhà xuất bản Văn Học cho
ấn hành tháng 9 năm 2006, là do công sức lớn của bà Lan. Đọc tập thơ gần năm trăm
bài thơ tứ tuyệt của ông, tôi phục sức làm việc của ông một phần, một phần phục
công chăm sóc của bà để tập thơ ra đời. Tôi hình dung cảnh bà ngồi lặng lẽ chép
thơ của ông và cảnh bà đi gõ cửa Nhà xuất bản xin giấy phép và bà gom góp số
tiền lương hưu ít ỏi của mình để in tập thơ cho ông, tôi ứa nước mắt cảm động.
Hỏi đời nhà thơ có hạnh phúc nào hơn với nghĩa cử của người vợ lo cho tác phẩm của mình như thế?!
Tôi đã
nhiều lần gặp nhà thơ Lâm Huy Nhuận,
hòng kiếm tìm thêm chút tư liệu về nhà thơ của bến My Lăng. Lâm Huy Nhuận- con
trai của thi sỹ Yến Lan, anh là nhà thơ trưởng thành thời chống Mỹ, với tính
khí sôi động ồn ã, khác hẳn tính nho nhã của cha anh. Lâm Huy Nhuận có thể uống
rượu đọc thơ ào ạt trước đám đông; nhưng khi nhắc đến người cha thi sỹ của
mình, bỗng anh trầm giọng lại. Anh nói cha anh cho anh ý chí làm người và dạy
anh làm nghệ thuật phải bằng tấm lòng yêu thương đích thực.Tôi nhớ một thời nhà
thơ Hoài Anh, thường kể chuyện rằng rất tự hào từng là học trò yêu của nhà thơ
Yến Lan. Sinh thời, ông luôn nhiệt tình kèm cặp các nhà thơ trẻ. Ông thường tâm
sự, muốn làm nhà thơ, trước tiên hãy làm con người tốt. Và với thơ , điều tối
kỵ là viết dối, viết cẩu thả. Với tôi, nỗi nhớ ông thường âm thầm và tự nhiên.
Trên đường đi đâu đó, hễ chợt gặp một phố huyện nhỏ bé nào, tôi lại tự nhiên
liên tưởng và bất thần nhẩm đọc vần thơ “ Tỉnh nhỏ đìu hiu...” của ông mà tôi
thuộc tự khi nào. Khi ấy, tôi như thấy
giải tỏa được rất nhiều tâm trạng của mình.
VŨ TỪ TRANG