Đáng lí ra thì công lên việc xuống như thế, vợ phải mệt đừ,
nhưng tài thực, không những đã chẳng sao mà lại còn tươi hẳn lên là khác. Ấy là
vì làm việc nhiều mà quên mệt? Ấy là vì thời tiết? Ấy là vì thương chồng,
thương con mà không quản ngại vất vả chăng? Đã đành là vào cữ tháng chạp ở Bắc
Việt người ta thấy trong người khoẻ mạnh hơn cả những tháng vừa qua; đã đành có
khi lòng yêu thương làm cho người ta quên mọi nỗi buồn phiền cực khổ khi thấy
những người thân yêu của mình vui sướng; đã đành là có nhiều khi ham mê công
việc quá mà quên mệt mỏi; nhưng bao nhiêu cái đó chưa thấm vào đâu với cái vui
của người đàn bà khi thấy năm hết tết đến, nhà cửa bình an, vui vẻ mà trong
mình lại có một số tiền dành dụm được từ trong năm, tạm đủ để mua bán cho bằng
chị bằng em hầu ăn một cái tết không to nhưng cũng không lúi xùi.
Tháng Chạp, nhớ ơi chợ Tết
VŨ BẰNG
Năm nào chồng cũng bảo vợ:
– Thôi nhé, năm nay ăn thế nào xong thôi, chớ bày vẽ ra lắm
chỉ tổ ốm người, em ạ.
Và năm nào vợ cũng trả lời:
– Thì nào có sắm sửa gì đâu. Chỉ có vài con gà con qué và
một nồi cá kho xì xằng…
Ấy thế mà từ đầu tháng chạp, nhà chẳng có lúc nào rỗi rãi.
Vấn đề quần áo tết đã giải quyết xong xuôi từ cuối tháng một rồi – vì sợ để đến
gần tết mới lo thì không có người nhận may – người vợ ngày nao cũng dậy từ tinh
mơ đi chợ để bắt đầu mua các thứ đồ nấu cất sẵn một chỗ, vì sợ để đến rằm tháng
chạp mới mua thì đã kém ngon mà lại đắt. Hầu sì, bong bóng, bào ngư, bột ngọt,
măng tây, vây cá… tất cả những thứ đó cất sẵn cả vào trong chạn. Tuy vậy, cũng
chửa yên tâm. Nhiều khi sực nhớ ra điều gì lại lấy cuốn sổ ra ghi.
– Phải thế mới được. Dạo này em nói trước quên sau, hỏng
quá.
Này, còn phải mua mấy cái tranh gà lợn và hai ông “Tiến tài,
Tiến lộc” để dán ở hai cánh cửa chính này; mua một hộp thuốc đánh đồ đồng này;
lên trên phố Lò Rèn lấy hai con dao gọt thuỷ tiên đặt đánh này; mua thêm mộc
nhĩ để gói giò thủ này… À, nếu em quên, anh nhớ nhắc nhé: mai, thể nào cũng
phải xuống ông Cả ở Khâm Thiên xin một ít lan chân cua về trồng.
Ở Hà Nội, đến Tết, nhà nào cũng phải có một cành đào hay cây
mai, một chậu cúc, cụm hồng nhung hoặc một cặp đỗ quyên có hoa nở đỏ chói để
cho vui nhà vui cửa; nhưng có những nhà đặc biệt quan niệm rằng tết mà không có
hai chậu lan chân cua để trưng bày thì cái tết kém hẳn phần rực rỡ. Bởi thế năm
nào cứ vào đầu tháng chạp, người vợ cũng tự tay trồng hai khúc xương rồng vào
hai cái chậu sứ Giang Tây rồi lấy con dao nhọn khía cây xương rồng ra để ghép
những cánh lan chân cua vào cho lan hút lấy nhựa xương rồng mà sống. Ghép lan
như thế, phải làm từ đầu tháng chạp. Chừng một tuần, những lá lan trông như
chân con cua bể căng nhựa, tươi lên trông thấy, và thường thường vào cuối tháng
chạp thì hoa nở sum sê, đỏ chói – nhưng đỏ một màu đỏ đặc biệt, nửa như màu chu
sa mà nửa lại như màu cánh sen.
***
Người chồng vụng chân tay, chịu chết không thể làm được công
việc đó, đành là phải đứng ở bên cạnh để xem có đỡ đần được việc gì chăng. Tủ
chè, sập gụ và bộ sa lông bằng gụ cẩn đá hoa đánh bằng xi không được, phải đánh
bóng bằng lá chuối khô; đồ đồng đánh bằng tro và trấu, đã lau sạch rồi mới bôi
thuốc đánh đồng; sàn gạch cứ đổ dầu lạc một đêm rồi lau đi, đợi đến hai mươi
chín, ba mươi cọ bằng nước thì mới bóng; mi môn, quần màn đem phơi sẵn một vài
nắng chớ không thì mốc đấy. Lăng ơi, con xem giùm mẹ cái tranh “Đông Phương Sóc
ăn trộm đào” cuộn lại cất ở đâu, lấy xuống phơi nhân thể để nay mai treo ở
ngoài phòng khách nhé.
Bao nhiêu màn ở ban thờ đã thay hết rồi, nhưng cái mâm ngũ
quả nhớ đem rửa sạch. Khanh ơi! Còn Khoái, con nhớ hai cái đèn lục lăng treo ở
hai bên bàn thờ Phật, phải hạ xuống rửa các miếng kính bằng xà phòng chớ cứ lau
không, không sạch. Ấy đó, quanh đi quẩn lại chỉ rặt những công việc vặt như thế
mà hết cả ngày. Hết cả ngày mà cũng không hết việc. Cứ vào khoảng mồng mười trở
đi, người vợ lại phải thức khuya để quét dọn bàn thờ, bày biện lại mấy bộ đồ
trà, mấy bình rượu thuý lục, thuý hồng bày ở trên đầu tủ rồi đem hộp mứt ra
rửa, cắt những miếng trang kim để bày dưới những miếng kính ở cơi trầu, rồi ra
sân vặn đèn thay nước của từng cốc, uốn lá và lấy những cái tăm tách những cài
giò thuỷ tiên ra để cho đừng chạm nhau. Nhiều khi đến lúc ấy thì người chồng đã
chợp được một giấc ngắn rồi. Nhìn xuống nhà thấy còn đèn, biết là vợ chưa đi
ngủ, người chồng dặng hắng rồi xuống thang, nhăn mặt:
– Làm gì mà đến giờ này vẫn chưa ngủ?
Biết là chồng khó tính, người vợ cười:
– Em sắp xong đây. Chỉ còn một tí nữa thôi: em để chậu thuỷ
tiên này ra sân cho có sương rồi lên ngay đây mà.
– Một giờ hơn rồi đấy. Em cứ thức thế này ốm mất. Đã bảo cái
tục ăn tết phiền lắm, phải giản tiện một chút, cứ theo đúng thủ tục thì theo
làm sao cho được.
Ngọn đèn đêm bật lên rồi, gian phòng ngủ chìm vào trong một
bóng tối xanh biêng biếc. Bấy giờ người vợ mới thủ thỉ bên tai chồng:
– Thì em cũng muốn giản tiện lắm đấy chứ, nhưng cũng chỉ
giản tiện được có chừng thôi. Tết mà không trang hoàng một tí cho vui cửa vui
nhà và sắm sửa lệ bộ mỗi thứ một tí, lòng nó không yên, anh ạ.
Có lẽ là vì từ bao nhiêu đời nay tổ tiên mình, rồi đến ông
cha mình tin tưởng, rồi đến mình đây tin tưởng là đất đai cũng như sinh vật,
ngưng hoạt động trong những ngày cuối năm, lại bắt đầu sống lại, với sự trở về
sắp tới của khí ấm. Từ quan niệm đó, người ta vui mừng trông đợi lúc cây cối và
muôn vật trở lại cuộc sống bình thường và ao ước năm mới phải có một cái gì
mới, một tiến bộ mới.
Người nông dân ao ước sản xuất nhiều, người thị thành ao ước
khôn ngoan hơn, giàu có hơn, trưởng thành hơn. Bao nhiêu thù oán xếp lại, tình
đoàn kết được đề cao, sự lo buồn lộn xộn quẳng đi một xó. Người ta thăm hỏi
nhau, kiêng mắng chó chửi mèo, kiêng hốt rác, rồi trông nêu, vạch vôi vẽ cung
tên, chẳng qua chỉ là để hi vọng năm sắp tới bản thân mình, gia đình mình, làng
nước mình sẽ khôn ngoan hơn, khoẻ mạnh hơn, sinh sản nhiều hơn. Người ta chúc
mừng nhau, cầu trời khấn phật, chỉ là để xin các sức huyền bí viện trợ cho
mình. Sự hoang đường mê tín thường xuất phát từ một nhu cầu thực tế. Không theo
như thế thì không yên dạ. Không yên dạ vì sợ rông, vì sợ xúi quẩy cả năm, nhưng
không yên dạ còn vì sợ việc này hay việc nọ trong năm sẽ không bằng được năm
cũ.
Em nghe thấy nói trước đây, ở chợ Đồng (Hà Nam), chợ Phủ Giày (Nam Định), có những người đến phiên
chợ cuối năm thường cố mang một thứ hàng, bất kì nhiều ít, bất kì tốt xấu đi
bán, chỉ mong bán chạy chớ không mong lấy tiền. Bán như thế là bán cái xúi quẩy
của năm cũ đi.
Cũng vậy, ở Nghệ Tĩnh trở vào Thừa Thiên ngày trước cũng có
tục đến phiên chợ tết thì đem đồ đi bán và rao “Có ai mua dại ra mua” và không
cần bán mà cũng không cần ai trả lời mua hay là không mua.
Tất cả những tục lệ ấy, truy tầm ý nghĩa sâu xa của nó, chỉ
là biểu hiện nguyện vọng của dân tộc muốn cho mọi sự trong năm mới phải hơn năm
cũ.
Em thiết nghĩ nêu ta có chỉnh trang nhà cửa, mua bán sắm sửa
cái này cái nọ, cho cửa nhà vui vẻ chẳng qua cũng chỉ là theo truyền thống của
dân tộc, lập lại cái nguyện vọng chung của dân tộc, nếu không có lợi thì cũng
chẳng có gì là hại.
– Nhưng mà mệt mỏi, bận rộn, ốm người!
– Đó là ý nghĩ của anh, chớ em thì thấy mình có bận rộn mấy
ngày này thì đến tết nghỉ ngơi, mình mới càng thấy sự nghỉ ngơi thanh thả là
quý báu. Anh bảo người ở xa nhà xa cửa đến tết lôi thôi lếch thếch vợ con kéo
về quê ăn tết còn mệt mỏi và tốn kém đến đâu, sao mà họ vẫn cứ về quê ăn tết?
Không về là không ăn tết, không ăn tết thì không thể yên tâm được. Có ai bắt
buộc họ đâu, nhưng họ cứ về, vì cách gì trong một năm họ cũng phải trở về nhìn
lại bàn thờ, ngôi mộ, cây cau, cúng ông bà, thăm họ hàng làng nước một lần, mà
lần đó phải là ngày tết. Về quê ăn tết, đối với tất cả người Việt Nam tức là
trở về nguồn cội để cảm thông với ông bà tổ tiên, với anh em họ hàng, với đồng
bào thôn xóm; về quê ăn tết tức là để tỏ cái tinh thần lạc quan ra chung quanh
mình, tỏ tình thương yêu cởi mở và biểu dương những tinh thần, những kỉ niệm
thắm thiết vì lâu ngày mà quên đi mất.
Riêng cái quan niệm về tết đó đã cao thượng lắm rồi, nó khác
hẳn đạo Phật, đạo Lão, nó không tách ra khỏi cuộc sống mà lại đi vào cuộc sống,
dựa vào cuộc sống mà vươn lên, nó thực tiễn và tiến bộ, anh ơi, mình chỉ thông
cảm sơ sơ cũng đã thấy khoẻ rồi. Thú thực với anh, em không thấy mệt một phút
nào và em nói thẳng là em yêu tết, mong tết y như lúc em còn nhỏ vậy.
Chẳng lẽ em của anh yêu tết, thích tết, ham sắm tết và trưng
bày ngày tết, anh yêu lại ngăn cấm em sao?
***
Nghe vợ nói như thế, người chồng ớ người ra, không còn biết
nói năng sao. Ờ thôi, em muốn làm gì mặc, nhưng có mệt mỏi, đừng than phiền
đấy! Nhưng cùng lúc nói câu ấy, người chồng thấy vợ đột nhiên đẹp trội hẳn lên,
y như thể một thiên thần. Nghĩ cũng kì: ăn thì khểnh, ngủ thì ít, mà làm sao
trong những ngày gần tết, vợ mình lại nhanh nhẹn hơn, đôi mắt sáng hơn mà má
cũng hồng hơn? Người chồng cảm thấy rõ rệt như thế; hơn nữa, trong những buổi
theo vợ đi chợ Mớ Mơ, chợ Bằng, chợ Ô Cầu Dền, chợ Đồng Xuân, chợ Đần, chợ
Ngăm, chợ Đẹp… đông quá, chen chân không được mà sao vợ mình cứ đi dẻo quẹo,
không tỏ vẻ gì mệt mỏi, dừng chỗ này mua một thứ, rẽ ra dãy kia mua thứ khác,
ôm đồm trăm thứ mà vẫn cứ tươi như thường.
Đất thì lầy lội, người thì đông, chen chúc xô đẩy ồn ào,
minh mệt muốn đứt hơi, đứt ruột mà cứ phải đi theo xách làn mây lẽo đẽo, lắm
lúc muốn thở hắt ra đi về; nhưng nghĩ thế mà thôi, chớ chợ tết có một sức hấp
dẫn hết sức kì lạ, muốn về nhưng lại cứ muốn đi, đi để xem thiên hạ mua bán, đi
để xem bao nhiêu cái ngon, cái đẹp của quê hương, đi để xem… chợ tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc,
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu.
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau,
Sương trắng đổ đầu cành như giọt sữa;
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh;
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh,
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô,
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán.
Mấy thầy khoá gò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân;
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm
Miệng lẩm nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ;
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cỏ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu;
Áo cụ lý bị người chen sau kéo,
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra.
Lũ trẻ con mãi ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chói tựa son pha,
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết.
Con gà trống mào thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem…
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm…
Không nhớ nhà thơ nào đã tả chợ tết như thế nhỉ! Mệt quá,
anh ta cũng chẳng buồn nghĩ xem là ai nữa, thì vừa lúc ấy vợ lại từ dãy hàng
hoa quả xách một cặp gà sống thiến bảo mình ngồi canh để còn đi mua thêm mấy
chục cam sành nữa rồi về.
Ngồi trên cái ghế dài thấp lè tè, làm một khói thuốc hãm với
nước trà tươi nóng, người chồng lại lim dim con mắt nhìn qua làn khói thì thấy
người lố nhố đi lại y như trong một bức phim màu vậy. Cái yếm sồi của cô gái
quê khéo đa tình lại đeo một lá bùa vàng; chiếc quần là ống sớ của chàng trai
chống chiếc gậy tre làm nổi bật cái áo tam giang của cô gái bán dừa; ông thầy
bói chít khăn nhiễu nước dưa có nhìn thấy quái gì đâu mà sao cứ nghển nghển
trông vào những bức câu đối đỏ của ông đồ bán chữ? Đây là tiếng ới, đó nọ câu
cười; mấy ông lái trâu nói thứ tiếng gì mà nghe như tiếng xạ phang, còn các bà
bán cây sao hôm nay ăn trầu tươi thế? Nhưng tất cả… tất cả đều thua hai chị em cô
hàng bán chiếu cạp điều cười đã xinh, ăn nói lại tình, ô hay, sao chiếu chất
cao gần nóc chợ mà mình lại thấy như có hoa nở ở chung quanh?
Thì ra chợ tết có một sức hấp dẫn kì lạ thật: nhìn vào cái
gì mình cũng thấy đẹp, trông người nào mình cũng thấy tươi, thấy cái gì mình
cũng muốn mua. Cái ống bương cắt chéo góc, ngày thường ai mà thèm để ý, ấy thế
mà mình cũng muốn mua để về trồng mấy giò lan “đồng tiền”; cái chút chít bằng
đất ra cái chết gì, ấy thế mà mình cũng muốn mua cho trẻ vì bây giờ ở phố phường
không có bán; mà cả đến hai chị em cô bán chiếu nọ mình cũng muốn mua luôn đem
về vì ngộ quá, y như thể một cặp búp bê Nhật Bản. Nhưng mà nghĩ một cách tội
lỗi thế thôi, và chỉ tán láo tán lếu tí ti thôi, chớ đâu dám đi sâu quá…
Phải chi đây là “phiên chợ cưới” thì mình đâu có ngán.
Phiên chợ cưới… Phiên chợ cưới… Ờ phải rồi, nhớ lại lúc vợ
chồng chưa lấy nhau, người chồng rộng cẳng thường vẫn bỏ nhà đi ăn tết lang
thang, có khi ở nhà con hát đàn, có khi ở một vùng quê, lại cũng có khi ở một
vùng sơn cước. Anh ta nhớ có một năm lên vùng Tam Đảo chia tỉnh Vĩnh Yên với
Thái Nguyên, anh đã đi một phiên chợ đặc biệt của đồng bào người Mán ở mấy tỉnh
Vĩnh Yên, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ: phiên chợ cưới. Chợ cưới họp vào
ngày hai mươi nhăm tháng chạp tại xã Tam Long, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên,
ở ngay cổng làng Tam Long, giữa cánh đồng, bên một con sông đào nhỏ nước trong
văn vắt.
Từ mười giờ sáng đến năm giờ chiều, các trai gái, hoặc là đi
một mình hoặc là cùng đi với bà con thân thích, kéo nhau tới chợ – nơi mà ngày
thường mấy xã ở quanh vùng vẫn họp nhau buôn bán. Nhưng hôm nay thì một con cá,
một lá rau cũng không có, vì đồng bào ở đây đã mua bán xong xuôi từ mấy hôm
trước rồi. Hôm nay, trai gái ăn mặc tề chỉnh, đến đây là để giao duyên và tình
tự với nhau. Có cặp thề sông hẹn núi; có đôi ước hẹn một ngày chồng vợ vuông
tròn; lại có những tình nhân trao đổi cho tình nhân những món quà kỉ niệm. Khe
suối, bụi tre, đồi cây, bờ ruộng, chứng kiến bao nhiêu mối tình thơ mộng, dường
như cũng rung động một cách khác thường, tươi lên một cách khác thường. Những
cái phá sặc sỡ, những cái khăn, những đôi hài sảo thêu xanh viền đỏ với bao
nhiêu hoa tai bạc, vòng cổ vàng, vòng tay đen, vòng chân tím giao hoan với mây
ngàn trắng màu bạc cũ, gió núi biêng biếc màu bằng lăng làm cho phiên chợ cưới
và bao nhiêu cảnh vật ở chung quanh có một vẻ huyền ảo lung linh như một buổi
quần tiên đại hội trong một thuở vườn thần thánh trên Thiên Đình.
Phiên chợ cưới… Chớ sao? Tiên cũng lấy nhau, chớ đâu chỉ có
người phàm trần mà thôi. Cô sơn nữ và chàng trai vùng Tam Đảo quanh năm vất vả
vì ma chay, giỗ chạp, nuôi trâu bò, gà lợn và đi rừng cắt đông trùng hạ thảo,
mộc nhĩ, hái lá kim giao, quên làm sao được phiên chợ cưới cuối năm; hết năm nọ
đến năm kia, bọn này thành vợ thành chồng thì bọn khác lại kế tiếp đi chợ cưới
Tam Long để gắn bó keo sơn, kết nên những cuộc ân ái đẹp như trăng thu, trắng
như tuyết núi.
***
Thả hồn về chợ tết ở Kinh, người chồng tiếc không biết bao
nhiêu cái đẹp đã qua và cảm thấy tức bực con người ở đây sao vất vả tấm thân vì
nhiều thứ phù hoa quá. Năm hết tết đến rồi, mình lì đến mấy đi nữa cũng cứ là
thấy sốt ruột vì nhiều công việc chờ đợi quá. Hôm qua, vợ đã gióng lên là nhớ
việc gì thì phải làm ngay, chớ cứ để dồn lại đến ngày chót, làm sao cho kịp:
lần này về, cách gì thì cũng phải lo “gửi tết”. Mình là ngành thứ phải đem đồ
lễ đến nhà gia trưởng: gà vịt, hoa quả, vàng hương; những ngành trực thống phải
“gửi” vàng hoa; còn những ngành khác thì dùng vàng hồ hoặc vàng lá. Vàng hồ là
một thứ vàng gốm, một phần ba những thoi vàng ở lớp trên làm bằng giấy bồi
vàng, còn hai phần ba lớp dưới là những thoi bạc làm bằng giấy bồi trắng có
dính mặt kính, trang kim. Vàng hoa làm toàn bằng giấy màu vàng, cũng có dính
mặt kính, trang kim như vàng hồ nhưng nhiều hơn, tượng trưng cho vàng thoi, do
đó mỗi nghìn vàng là một nghìn thoi nhỏ. “Gửi tết” nhà gia trưởng mà không có
vàng, không được.
Gửi tết rồi lại còn phải lo biếu tết. Bao nhiêu bạn bè, thân
thích xa gần buôn bán, giao thiệp với mình, làm ơn làm huệ cho mình, nhất thiết
phải moi trí óc ra mà nhớ cho kì hết để đem đồ đến biếu. Biếu như thế không
phải là đút lót, mà chỉ là để tỏ cái tinh thần thương yêu, cởi mở, thực thi
quan niệm “thêm bạn bớt thù”, san bằng những mâu thuẫn để cho người ta có dịp
biểu thị những tình cảm, những ý niệm thắm thiết mà người ta không biểu thị
được trong những ngày thường trong năm phải làm ăn vất vả, đầu tắt mặt tối
không có thời giờ thăm viếng nhau, trò chuyện với nhau lâu.
Xong được mấy công việc đó thì cũng đã đến rằm, mười sáu
rồi. Đến cái ngày ấy, anh thấy thời giờ đi nhanh một cách tệ hại. Dù anh lơ là
với tết cách nào đi nữa, anh cũng cứ thấy tim anh rộn ràng lên, anh không biết
phải làm việc gì trước, việc gì sau và anh thấy rằng mặc dầu là bỏ giấc ngủ
trưa, những ngày cuối năm ấy quả là đi nhanh quá, nhanh như “bóng câu qua cửa
sổ” – cái danh từ rất sáo mà lúc nhỏ anh vẫn viết trong tờ “com-pờ-li-măng” đọc
chúc mừng thầy giáo trong buổi học tất niên viết trên một tờ giấy rất trắng vẽ
một bó hoa buộc bằng một cái băng tam tài!
Thì ra mình trách vợ bận rộn về tết, ốm cả người, mà chính
mình từ rằm tháng chạp trở đi cũng bận rộn, vất vả y như vợ vậy. Cái việc mua
giấy hồng điều rắc vàng để nhờ ông Cả Nam viết câu đối dán ở cột trước cửa và
ngoài sân; cái việc mua trầm để đốt trên bàn thờ; cái việc đi chọn pháo Công
Tường Cát để đốt đêm giao thừa vào ba ngày tết, nhất định mình không đảm trách
thì không được. Cũng không được, nếu sắm sửa tết tàm tạm xong xuôi mà mình lại
không cùng với vợ đi thăm mộ gia tiên nội ngoại để viếng các cụ, đắp lại mộ các
cụ và thắp nhang mời các cụ về ăn tết với con cháu nhà. Trước đây, làng Đáp
Cầu, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh có cái lệ đi thăm mộ gia tiên hàng năm ấn
định vào ngày ba mươi tháng chạp nếu là tháng đủ, hay hai mươi chín nếu là tháng
thiếu. Nhiều làng khác cũng theo như thế. Nhưng sau này, đời sống xô bồ, có
thay đi chút ít, người thành thị đi thăm mộ ông bà cha mẹ sớm hơn một chút, có
khi trước ngày ông Táo lên chầu trời, có khi sau vài ngày.
***
Thực tình, cái giống nhà văn, nhà báo có lúc đáng yêu thật,
nhưng có một vài khi cũng làm cho đàn bà bực cả mình. Cái gì lại đem cả ông Táo
ra chế nhạo là “đội mũ đi hia chẳng mặc quần”? Cái gì lại đề nghị bỏ tục lễ ông
Táo mà cho như thế là dị đoan? Cái gì mà năm nào cũng nhạo ông Táo “lập bô” lên
với Trời về các việc xảy ra dưới trần?
Muốn nói gì thì nói, người vợ, đúng ngày hai mươi ba tháng
chạp, cứ phải đủ lệ bộ tiễn ông Táo lên trời thì mới yên lòng.
– Mình là người trần mắt thịt, biết thế nào là dị đoan hay
không dị đoan, biết thế nào là Tây Phương có lí hay Đông Phương có lí? Ai bảo
phản khoa học em chịu, ma ai bảo cái tục này do quan lại phong kiến đặt ra để
ngu dân, lại cũng chịu luôn; nhưng lễ tiễn ông Táo vẫn cứ lễ tiễn như thường vì
không làm như thế thì em ăn tết không ngon. Tội gì mình lại khổ thân mình như
thế?
– Nhưng mà nó buồn cười, em ạ. Tiễn một ông vua bếp cưỡi
ngựa cá chép lên chầu trời, còn có cái gì nực cười bằng?
– Nói như thế, thật hay, thật đúng. Nhưng mà ta cũng nên
biết rằng ta thờ kính ông Táo có phải là ta thờ kính cái ông vua bếp cưỡi cá
chép lên chầu trời đâu?! Cũng như ta trồng nêu, vẽ vôi bột, gói bánh chưng, dọn
cửa lau nhà, kiêng cữ chửi mèo mắng chó, ta tiễn ông Táo là để chứng tỏ tính
chất đồng nhất của xã hội, vì biết ăn tết tức là tầm mắt ta đã vượt được cái tổ
chức thị tộc bộ lạc chật hẹp để sống với nhau rộng rãi hơn trong sự đoàn kết
của nhiều thị tộc bộ lạc thống nhất với nhau về quan niệm, nghi lễ cũng như về
thời gian.
Đấy là lúc tổ chức gia đình đã có cơ thay thế cho tổ chức
thị tộc. Sự thờ cúng ông Táo và sự tiễn đưa ông Táo lên trời hôm hai mươi ba
tháng chạp chứng tỏ rằng người mình lúc ấy đã tổ chức thành gia đình nhỏ, mà
cái bếp của ông Táo là tượng trưng cho gia đình, cái bếp là đơn vị nhỏ nhất của
xã hội. Cái gia đình ấy, cái đơn vị ấy đồng nhất từ Bắc vào Nam cho nên không có kẻ nào chia rẽ được Nam với Bắc.
Nếu bảo tiễn ông Táo là mê tín dị đoan thì cả nước ta đoàn
kết ngay cả trong sự dị đoan, mê tín: ông Táo ở Bắc, hôm hai mươi ba tháng
chạp, lên chầu trời cưỡi một con cá chép thì cũng ngày ấy ở Trung, ông Táo cưỡi
một con ngựa yên cương chĩnh chạc, còn ở trong Nam thì giản dị hơn, đồng bào ta
cúng ông một cặp giò – cặp hia để cho ông đi lên Thiên Đình cho lẹ!
Người chồng đùa dai, chọc nữa:
– Người ta bảo là ông Táo tham nhũng lắm, chẳng biết có đúng
không? Ai mà lễ ông chu đáo, ông tâu tốt, ai không có gì, ông truy…
– Đấy là nói đùa. Nhưng nếu căn cứ truyền thuyết mà bàn thì
ông Táo nếu ăn tiền có muốn tâu bậy cũng không thể được. Là vì – lại theo thần
thoại – các cụ ngày xưa chống tham nhũng triệt để chớ đâu có như bây giờ. Anh
quên mất rồi ư? Tháng mười ta có lễ song thập là ngày lễ gần cuối năm, có tên
là Hạ Nguyên.
Đó là theo tục lệ nhà Phật.
Nhưng theo truyền thuyết thì ngày song thập, tức là mồng
mười tháng mười, trên Thiên Đình, Ngọc Hoàng Thượng Đế sai một sứ thần tên là
Tam Thanh xuống kinh lí trần gian để kiết toán những điều lành hay dữ trong một
năm qua để làm biên bản tâu lên Ngọc Hoàng minh xét. Vì thế, vào ngày ấy, dân
chúng lập bàn thờ hương án để rước điều lành, tránh điều dữ trong dịp thăm
viếng của sứ thần Tam Thanh, đồng thời sửa cơm canh cúng ông bà cha mẹ qua đời
và cầu Trời Phật phù hộ cho mạnh khoẻ, ăn nên làm ra, tai qua nạn khỏi.
Như vậy là trước ngày ông Táo lên chầu Trời hai tháng thì đã
có một phái đoàn điều tra xuống dưới trần để xem xét tình hình rồi, các ông Táo
của các gia đình gan có bằng gan cóc tía cũng không dám khai gian nói bậy.
Nói câu này, nhất định có người sẽ bảo là mình nịnh vợ,
nhưng có thế nào cứ nói thế, không sao: tôi thích nghe những truyện truyền kì
như thế nhưng từ buổi di cư vào miền Nam ít được ai nói tới, thành thử lắm khi
cũng nhớ, mà đời hình như cũng kém thơ mộng đi một chút. Có lẽ cũng chính vì
thế mà ăn mười tám, mười chín cái tết ở đây, vào ngày ông Táo chầu trời, không
thấy ai cúng cá chép, mình có khi cảm thấy như nhớ cái gì đẹp lắm mà mất đi
không còn thấy nữa. Tôi nhớ Bắc Việt vào những ngày hai mươi ba tháng chạp,
tiễn ông Táo lên Thiên Đình, cái không khí nó khang khác chớ không như thế này…
Từ sáng tinh sương, chưa bước chân xuống giường, tôi đã nghe thấy rao ơi ới ở
khắp các nẻo đường: “Ai mua cá ông Táo không?”, “Cá ông Táo không nào”. Nghe
như thế, tự nhiên lòng mình bỗng nao nao vì biết rằng có cá ông táo là sắp đến
Tết rồi. Không thể nào nằm được nữa. Mình ra xem thì thấy những bà bán hàng
gánh hai cái thùng sơn đi vắt vẻo đôi tay, như chạy, để bán vội cho hết hàng,
kẻo còn phải về sớm để sắm sửa tiễn ông Công lên chầu Trời tâu việc hàng năm
của mỗi gia đình. Ông Công đó là thần Trương Đàn hay Tử Quách, chỉ phụ trách
riêng về việc bếp núc, còn Thổ Địa trông nom việc nhà, Thổ Kỳ có nhiệm vụ coi
về chợ búa và tăng gia sản xuất cho đàn bà.
Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ là ba nhân vật trong truyện truyền
kì “hai ông một bà” mà dân gian đều biết: hai ông là Trọng Cao và Phạm Lang,
còn một bà là Thị Nhi cùng chết trong một đống rơm. Để kỉ niệm ba người cùng
chết một lần vào ngày gần tết, dân chúng làm cái bếp ghép bằng ba hòn gạch đều
nhau bắt góc. Ở giữa, có để một hòn đá: đó là tên đầy tớ xông vào đám cháy để
cứu chủ không được mà cũng bị chết lây. Thường thường, ai cũng tưởng lễ tiễn
ông Táo là ngày lễ cuối cùng trong một năm, thật ra sau đó hai ngày còn lễ tiễn
ông vải, lễ tạ trường và lễ tất niên.
Trong lễ tiễn ông vải, người ta đem hết cả những chân nhang
trong một bát hương đốt quanh năm ra đổ xuống sông hồ hay đốt đi và thay tro
khác vào bát hương. Nhân lúc con cháu dọn dẹp, bày biện lại bàn thờ, ông vải
thừa dịp đi chơi vài ngày để chờ lễ Giao Thừa lại trở về ăn tết với con cháu
trong nhà.
Ít lâu sau này, lễ tạ trường đã bỏ vì chữ Hán hết thời,
nhưng lễ tất niên thì vẫn giữ nguyên cò bay ngựa chạy từ đồng ruộng đến thị
thành: đúng ngày ba mươi tháng chạp, dân chúng làm cỗ ăn mừng và gọi là cỗ tất
niên. Ăn xong bữa cỗ này buổi sáng, đến mười hai giờ đêm là lễ giao thừa đánh
dấu lúc hai năm mới cũ giao tiễn nhau, pháo nổ đì đùng, thiên hạ lũ lượt kéo
nhau đi lễ đầu năm hái lộc.
Em ở mình đây, trời nắng lắm
Sài Thành không biết có xuân sang.
Xuân này xứ Bắc ra sao nhỉ,
Đào có hây hây? Cúc có vàng?
Câu đối có còn ôm đỏ cột,
Nêu dài tiếng khánh có khua vang?
Nói đến Tết ở miền Bắc thì trăm nhớ nghìn thương, chớ đâu
chỉ có đào, câu đối và cây nêu như nhà thơ xa cố quận nhờ nhạn đưa thư về hỏi
thăm chị Trúc? Nằm ở nơi đây là đất mà có người ca ngợi là mỗi khi tết đến “dưa
hấu chất cao hơn nóc chợ”, người xa nhà nhớ nhất cái mưa xuân bay nhè nhẹ như
hôn vào môi, vào má người ta, thay thế cho cái mưa phùn đem buốt lạnh thấm vào
da vào thịt; nhớ những con đường hoa láng láng, thơm thơm như có bàn tay ai lau
rửa thay thế cho cái lầy lội, ướt át kéo dài từ tháng một sang đến thượng tuần
và trung tuần tháng chạp; nhớ những hoa mận, hoa đào đú đởn múa may trước gió
hiu hiu thay thế cho những cành khô nghèo nhựa nằm chết chóc trong giá rét
trước ngày đông chí.
Tài thế, lập xuân rồi thời tiết đổi thay liền! Thảo nào sách
Thích Danh giải nghĩa Xuân tức là xuẩn, nghĩa là cựa động, muôn vật đến mùa ấy
cựa động mà sống dậy. Người đàn bà Trời đã cho đẹp, lập xuân rồi tự mình cũng
thấy mắt biếc hơn, má hồng hơn, ngực tròn hơn và cảm thấy như nhấp một thứ men
nồng làm cho lòng phơi phới.
Đêm qua hoa nở nhị vàng,
Sáng ngày thiếp thấy bóng chàng áo xanh.
Chàng áo xanh về quê ăn tết thấy cô gái đa tình, mấy mà
không thấy lòng rạo rực thương yêu và thốt ra lời tình tứ:
Vườn em có choẻn cau non,
Nhà anh có chiếc cơi son đợi chờ.
Thậm chí đến bậc lão đại, bạc cả mái đầu, thấy hoa xuân hé
miệng ra cười cũng cảm như thấy con tim muốn nói lên những lời yêu thê thiết.
Ai ơi, chơi lấy kẻo chầy
Xem hoa bốn mắt đi giày ba chân.
Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những
ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế,
lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.
Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết; yêu ngọn cỏ gió đùa,
mây trôi lãng đãng, ngọn núi đồi sim, nhựa cây mạch đất, yêu con sâu cái kiến
nằm co ro trong tổ bấy giờ trỗi lên tìm lá mới hoa non, yêu cô gái mặc quần
lĩnh hoa chanh lại cài một cánh hoa hồng trên mái tóc, yêu con bướm đa tình bay
lượn trên giàn hoa thiên lí, cái áo nhung xanh nổi bật lên trong vườn quýt đỏ,
cam vàng, trông mới lại càng yêu những giọt mưa bé tỉ ti đọng lại trên nhung
mướt làm cho người đẹp óng a óng ánh như thiên thần trong mộng. Cũng may mà cứ
vào tháng chạp, ở đây, thỉnh thoảng lại có những đêm xanh gió thổi hiu hiu làm
cho người thức khuya cảm thấy da tê tê, lành lạnh mà nghe như thấy tết đến xuân
về trước ngõ nên cũng nguôi ngoai được phần nào, chớ cứ nắng chói chan, khô héo
liền liền thi chỉ thương nhớ mà héo hắt đi, sống làm sao cho nổi.
Tết ở đây thiếu gì vải lụa của Thái Lan, Đại Hàn, thiếu gì
đồ ăn thức uống của Nhật, của Mỹ, thiếu gì trái ngon, gái đẹp “lô can”, nhưng
cơn cớ làm sao mỗi khi có sự giao tiễn đôi mùa thì lòng lại hướng về quê cũ xa
xưa, mơ lại ngày nào cùng vợ đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ, rồi về ăn
quấy quá cho xong để lại đi ù lên Ngọc Hà mua mấy cánh mẫu đơn về để cắm bình,
không quên vài tấm giấy đỏ để gói tiền mở hàng cho trẻ, một chai Mai Quế Lộ hay
Sử Quốc Công, hai vợ chồng đi dưới mưa riêu riêu dặn nhau phải nhớ mua một hộp
trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc và xẻ vài chai rượu nếp cẩm hạ thổ từ tháng tám!
Nhớ lại như thế thì quên làm sao được vào những ngày hai
mươi bốn, hai mươi lăm vợ thức từ bốn năm giờ sáng, khoác một cái áo lạnh trên
mình ngồi giữa sập sắp xếp các món đồ đem đi biếu tết những bạn bè thân thiết.
Đó là cả một vấn đề phức tạp: hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc để biếu ông Long
đã đành rồi, nhưng ông Luận hôm qua đã cho rượu, chả lẽ mình lại biếu rượu nữa,
thôi hay là biếu cân mứt và chục cam Xã Đoài. Hộp kẹo này đưa sang bác Thanh
Châu; chị Sen ơi, hai hộp trà mạn sen tự tay mợ ướp đây là để dành cho ông
Chung, ông Chước; nhưng đến Nguyễn Dân Giám thì quả là khó nghĩ. Hôm hai mươi
ba mới rồi, để đánh dấu tập “Dưới rặng thông” in làm phụ bản số tết, anh ta sai
người làm đội một cái quả to bằng cái nia từ Hàng Cân đến Hàng Da, đầy đủ bún
thang, chả quế, giò lụa, nước xuýt, bào ngư, hầu sì, cuốn; bây giờ biết đem
biếu gì đây? Ấy, chỉ có thế mà nghĩ mãi không biết làm ăn ra thế nào.
Ôi chao, cứ suy nghĩ vơ vẩn mãi thế này, bực lắm. Người
chồng nại cớ đi lấy “cái phong bì” của nhà báo tạ ơn nhân dịp cuối năm, rủ bạn
hữu đi ra ngồi “Lơ Lắc” uống lót dạ vài cái “pun sô” và trông mưa bay trên hồ
Hoàn Kiếm, ngâm bài thơ điên.
Có linh hồn, tôi đem cho trọn vẹn,
Vốn nhà nghèo, không quen cảnh bán buôn.
Đến những kẻ mới vờ duyên hứa hẹn,
Tôi cũng cho trọn vẹn cả linh hồn.
…
Điên! Điên! Điên! Và say nữa, xin say,
Điên đến chết và say cho đến khóc.
Say thêm nữa! Phút giây điên ngà ngọc!
… Dốc máu buồng tim, giết hồn lấy xác!
Ta cao dâng tế lễ đấng Thiêng Liêng.
Nhạc đâu rồi! Lễ vật sắp đưa lên,
Xin mau nổi cho hồn ta rung động…
Yêu tết không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày
hai mươi chín, ba mươi, anh em say suốt ngày, tơ lòng rung động như điên, chè
chén ở quán này chưa đã lại sang tiệm khác đập phá ầm ầm. Mà để làm gì? Chỉ là
để tỏ rằng mình là những người văn nghệ bị đời bạc đãi nhưng nọ cần ai cả, mục
hạ vô nhân…
Quan niệm đời một cách sai lầm như thế, chúng tôi tuy vậy
vẫn tự cao tự đại và thỉnh thoảng lại lên cái mặt sầu đời, bỏ cả lễ giao thừa,
đi một mình ở ngoài đường để suy tư, và suy tư mãi chẳng thấy tòi ra cái gì thì
tìm một cái gì trác táng để liều thân hoại thể. Thuốc phiện. Trai gái. Rượu
chè. Chúng tôi không chê bất cứ một thứ gì làm cho con người sa đoạ. Nhiều khi
đi đến gần sáng mới về mà vẫn thấy người vợ còn thức với con để xem lại nồi cá
kho, gói mấy cái giò gà, thái củ cải, cà rốt để sáng hôm sau nêm vào đồ nấu
hoặc vừa quấy một xanh chè đậu vừa ngồi trông nồi bánh chưng luộc ở ngoài sân,
người chồng cũng cảm thấy hơi se lòng một chút nhưng lại tự mình tha thứ mình
liền, chỉ vì lẽ là ngày tết, người đàn ông có thể tự cho phép sống ra ngoài
vòng kiềm toả từ ngàn xưa ấn định, mà cũng là để giải phóng bao nhiêu trói
buộc, với hi vọng năm mới sẽ đưa lại nhiều may mắn hơn năm cũ.
***
Về khuya, bắt tay bạn hữu ra về, đi thơ thẩn trên đường hoa
một mình, anh thấy lòng anh cũng căng lên một thứ nhựa như cây cỏ và hình như
có những bàn tay bé nhỏ mơn man trái tim anh lúc ấy đập mạnh hơn vì máu chảy
dồn dập và nóng hổi.
Lúc ấy, nhà đã trang trí xong xuôi. Đèn nến thắp la liệt
trên bàn thờ. Nhìn vào chỗ nào cũng thấy khói hương nghi ngút. Cây đào và những
cánh mẫu đơn in bóng lên tường làm cho anh ngỡ mình đương đứng trước một bức
tranh cổ của Tàu. Ở ngoài kia, có tiếng gì nhỏ bé như tiếng sóng xa xa mà lại
như tiếng đàn hát của thần tiên, tiếng chuyển mình của sông hồ, của lộc cây,
của giàn hoa thiên lí?
Người chồng ngờ đó là tiếng của mùa xuân, nhưng không nói
cho ai biết, lẳng lặng mở bình Mai Quế Lộ, rót ra hai cốc nhỏ mời vợ một, còn
mình uống một. Thỉnh thoảng, ở ngoài sân lại có tiếng tạch, tiếng đùng: ấy là
lúc các trẻ trong nhà bắt đầu “đốt pháo một” tung lên trời. Mùi thuốc pháo thơm
thơm bay vào trong nhà, lảm cho cả vợ cả chồng hơi ngột, nhưng ngột một cách du
dương.
Trong khi ấy, từ xa xa vọng lại tiếng ống bương nện xuống
đất đều đều, hoà với những tiếng hát trầm trầm, bổng bổng của những em đi “súc
sắc súc sẻ” ca ngợi sự hoà ấm của gia đình “có rồng ấp trên giường cao, có rồng
chầu dưới giường thấp” và chúc cho ai nấy “sinh đẻ những con tốt lành, những
con như tranh, những con như vẽ”, sống lâu một trăm tuổi lẻ mà lại giàu có đề
đa, có voi buộc trong tàu, có ngựa giỡn nhau trên cỏ…
Cái tết đẹp nhất, mê li nhất chính là ở vào giây phút thần
tiên đó. Lát nữa, cúng kiến trời đất tổ tiên xong rồi, người vợ thoa tí phấn,
điểm một giọt hồng lên má rồi bận cái áo nhung màu hoa sim cùng chồng vả con mở
cửa đi ra đền Ngọc Sơn, rẽ sang đình Hàng Trống, đi lên Hồ Tây, vào đền Quan Thánh
lễ giao thừa, rồi người thì cầm cành lộc, người cầm hương lộc, đi thong thả về
nhà, sự mê li còn gấp trăm gấp ngàn lần nữa.
Những đêm như thế thường thức cho đến gần sáng bạch cả nhà
mới đi nằm. Là vì về đến nhà, còn bao nhiêu việc nữa chớ đã được nghỉ ngay đâu.
Mở cửa vào xông đất lấy. Khoái và Lăng chạy ngay vào buồng khách lấy bánh pháo
Điện Quang dòng từ trên mái xuống đốt lấy may; vợ thì lễ xì xà xì xụp; xong rồi
cả nhà quay ra ăn uống, nếm thứ này một tí, nếm thứ kia một tí, rồi trò chuyện,
rồi lập chương trình đánh tam cúc và rút bất, bắt đầu từ tối mồng hai, rồi
chồng mở hàng cho vợ; vợ mở hàng cho con… Ối, cứ thức đến sáng bạch cũng vẫn cứ
được đi, nhưng sợ là mai mệt nên hai ba giờ sáng phải đi ngủ cả.
Chẳng biết lũ trẻ đi nằm như thế thì có ngủ được không, chớ
người chồng mơ lại lúc mình còn nhỏ, nhớ mang máng rằng giấc ngủ đêm ba mươi
tết chập chờn, không mấy khi ngon. Ấy là tại vào cái thuở thanh bình ấy, pháo
đốt suốt cả đêm không ngớt một phút nào, người đi lễ đông nườm nượp, lại thêm có
những người có lẽ vì vui quá cứ ngửa mặt lên trời đi ngâm thơ bô bô ở ngoài
đường!
Ôi những đêm giao thừa xa xôi, những đêm giao thừa cực lạc,
đi không bao giờ trở lại, ta chẳng còn thấy thần thánh xuống trần để vui cuộc
đời trần tục, ta chẳng còn thấy Đức Tin ngời lên trong ánh mắt của muôn người…
Cố nhân ơi, cố nhân đem theo biết bao nhiêu hương vị đậm đà của kiếp sống khiến
cho những giao thừa còn lại chỉ là thừa mà thôi…
Em ở mình đây, trời nắng lắm,
Sài Thành không biết có xuân sang.
Một đêm trăng khuyết đầy thuơng nhớ
Đất Bắc xa vời không tiếng vang.
…Ôi, vườn dâu cũ ai cười đó,
Xào xạc bên sông tiếng chợ tàn.
Mưa bay đầy ngõ hoa đào rụng,
Này đã giao thừa pháo nổ ran…
***
Ờ phải, ở đây pháo cũng nổ giao thừa, nhưng còn đâu là bầu
không khí dịu hiền của những ngày trước nữa. Bao nhiêu bè bạn giờ nầy đây đã về
với gia đình. Người chồng cô chích cảm thấy mình lẻ loi, xa vắng hơn cả bao giờ
hết, đi tha thẩn một mình trên các đường phố giới nghiêm, thỉnh thoảng lại có
bóng một gã công an chìm và cảnh sát cùng quân cảnh bảo vệ an ninh trong bóng
tối.
Xa xa, tiếng súng nổ như điên.
Không đâu, năm nào đến tết cũng ngưng bắn vài chục tiếng
đồng hồ: mình thừa đạn thì nổ thay pháo chớ không phải là diệt địch, cứ yên tâm
uống rượu, và tán láo, đừng có sợ! Chao ôi, chơi bời láo lếu mà thấy an ninh
được bảo vệ kĩ càng như thế, mình lại càng thấy yêu Sàigòn không biết chừng
nào. Có những nhà hàng mở cửa suốt đêm. Có những quán cà phê bày bàn ghế ra hè
nhiều gái chơi bời ngồi đợi khách hơn là khách vào uống rượu. Lại cũng có những
phòng trà có ca nhạc hai ba giờ sáng mà vẫn có người vào nghe.
Kì chưa, thế thì họ không lễ giao thừa à? Họ không kiêng cữ
gì à? Họ không cần biết xông đất là gì à? Họ khoa học như Mỹ, không tin dị đoan
chăng? Hay là khói lửa và sự chật vật trong cuộc sống đã làm lệch lạc đầu óc
họ? Người mắc bệnh sầu thương cố lí, không lệch lạc đầu óc, mà cũng không bài
xích dị đoan, ngồi ở đầu ngọn gió lạnh giao mùa, nhìn hàng tiếng đồng hồ vào
trong bóng tối đêm ba mươi không nói, không rằng, đứng dậy, trả tiền đi thong
thả trên con đường vắng ngắt. Đèn Sàigòn sáng lắm, nhưng đêm ba mươi tháng chạp
thì ngửng lên trời làm sao thấy được mây lưu lạc, mà tiếng nhạc “sun” ầm ĩ như
thế thì nghe làm sao thấy “tiếng sóng nhỡ nhàng ở bến cũ cây đa”?
Đêm ấy, trên con gác nhỏ leo lét một ánh đèn mệt nhọc, có
một người nhớ da diết giao thừa Bắc Việt, ngồi dở những trang sách cũ xem lại
những tranh con gà con lợn. Tội nghiệp, sinh vào cái thời loạn, ở ngay trên
chính đất nước mình mà không có lấy mấy bức tranh con gà con lợn thực để mà
coi, phải dở đồ giả chụp lại đem ra ngắm! Tự nhiên anh cảm thấy có một cái gì
làm cho da dẻ tê tê, gờn gợn lạnh. Đã mấy chục năm nay, anh ta không còn được
trông thấy những bức tranh gà lợn thực, đưa lên mũi ngửi mùi giấy, mùi mực, mùi
màu thực của những bức tranh ấy nữa. Đêm nay, nghe tiếng pháo của nhà ai nổ
vang ở chung quanh, người tương tư Bắc Việt không biết làm gì, giở lại những
bức tranh gà lợn giả lên coi, cảm thấy da dẻ tê tê, lành lạnh chính là vì anh
thấy hiện lên ở trên những bức tranh chụp lại, vẽ lại đó không biết bao nhiêu
kỉ niệm xa xưa đã được khâm liệm trong trí óc.
Đó là những kỉ niệm lúc còn nhỏ bé ở căn nhà thấp lụp xụp
phố Hàng Gai, còn cụ tổ, còn bà nội, bà ngoại, còn cha mẹ, còn đông đủ anh em
chú bác.
Năm nào cũng vậy, cứ vào những ngày cuối năm mẹ tôi đi sắm
tết về cũng mua cho anh em chúng tôi một cuộn chừng chín mười tờ tranh vẽ trên
giấy Đáp Cầu, dọc chừng một gang tay rưỡi, ngang chừng bốn gang hay hơn một
chút. Những bức tranh ấy mang những hình vẽ khác nhau: hái dứa, gà mẹ gà con,
chuột vinh quy bái tổ, Phúc Lộc Thọ, Thần Trà, Uất Luỹ, cóc đi học, Ngưu Lang
Chức Nữ, Đinh Tiên Hoàng cưỡi rồng v.v… Bức nào cũng xanh đỏ loè loẹt, bức nào
cũng có những nét hóm hỉnh mà ngây thơ, bức nào cũng làm cho chúng tôi thích
thú. Và năm nào cũng vậy, anh em chúng tôi cũng tranh giành nhau những, bức
tranh gà lợn đó, có khi đến đánh nhau; nhưng rút cục thì anh em thoả thuận dán
đầy cả lên tường để ngắm chung và làm như thế thì nhà tôi, đương bình thường,
vụt hiện ngay ra một quang cảnh Tết vui tươi khác thường, tưng bừng nhộn nhịp
không chịu được.
Sau này, lớn lên một chút, đi học Tây, tôi lên mặt hợm, coi
thường những tranh ấy và cho là “quê một cục” vì hàng ngày học sử Hy Lạp, tôi
thường thấy những bức hoạ của Gauguin, Léonard de Vinci… và tôi nghĩ rằng tranh
như thế mới là tranh, vẽ như thế mới là vẽ, chớ cứ quanh đi quẩn lại chỉ có mấy
chú chuột thổi kèn tàu, Chức Nữ mặt méo xẹo, mà lại có đuôi gà, cóc đi học quạt
lò mà cái ấm lại to hơn cóc… thương làm sao cho nổi! Ấy là cái lúc tôi lai Tây,
học sử địa “Nước tôi tên là xứ Gaulle, tổ tiên tôi là người Gaulois” và tôi
tưởng rằng cái quan niệm mới mẻ ấy sẽ cứ tồn tại mãi, rồi trưởng thành, rồi già
nua trong đầu óc tôi như thế mãi. Hoá ra tôi lầm. Thôi trường ra, đi lang bạt
nay đó mai đây xa nhà cửa ông bà, xa quê hương bác mẹ, cái gì làm cho tôi nhớ
nhất, ấy là cái tết, mà nhớ đến tết, cái mà tôi không thể nào quên được, ấy là
những bức tranh gà lợn.
Kế đó là thời kì chè rượu bê tha, nằm ở một cái phòng chật
hẹp ở phố Hàng Đồng hút thuốc phiện, bị cả họ khinh khi, nằm bẹp gí trên một
cái giường mệt nhọc, hút thuốc tối ngày rồi đợi đến đúng trưa ngày ba mươi thì
trở dậy đi mua một cành mai vàng về cắm trong một cái cốc dơ và dán ở đầu
giường bức tranh “Chức Nữ Ngưu Lang” để mỗi khi hút xong một điếu lại lơ mơ
ngắm bức tranh, tự ví mình với Ngưu Lang bị trời đày, chư tiên ở trên trời
khinh bỉ “nhưng đây nọ có cần”, một ngày kia làm chuyện lớn, khối anh xúm lại
mà nịnh như nịnh Tô Tần ngày trước.
Một thời gian qua đi nữa rồi đến thời kì bỏ thuốc, sống với
vợ con theo đúng một anh “chân chỉ hạt bột”: cứ mỗi khi tết đến thì vợ, không
do ai bảo hết, cũng làm đúng như mẹ mình ngày trước, cứ mỗi khi tết đến thì lại
mua mấy bức tranh gà lợn về để cho con dán lên trên tường.
Thì ra những bức tranh gà lợn đó không phải chỉ hoà đồng với
tôi, nhưng hoà đồng với vợ, với con tôi như thế, có lẽ vì chúng tượng trưng cho
tinh thần dân tộc Việt Nam mà chúng tôi không biết. Tường tết mà vắng những
tranh ấy mình cảm thấy nhớ nhung. Tết mà không mua tranh ấy dán lên tường, mình
thấy chưa phải hoàn toàn tết.
Tôi nhớ có nhiều khi cứ suy nghĩ vẩn vơ như thế và nói mãi
cho con nghe ý nghĩa những bức tranh gà lợn, mình thành ra bị ám ảnh và đến lúc
nhắm mắt ngủ thì nằm mê – mê thấy hiện ra những cảnh chuột đi hai chân như
người thật, lợn con lội qua sông, mê thấy Đinh Tiên Hoàng đứng điểm binh như
một ông tướng Đức, mê thấy cá chép đi cà kheo lộc cộc trên cầu Thê Húc. Tất chỉ
những thứ đó hiện ra rồi biến đi trong một thế giới kì ảo lạ lùng mà người cảm
thông với vật, chuyện trò thân ái với nhau chớ không có một tí ti gì là thù
ghét…
Thôi rồi, bây giờ còn làm sao mà thấy lại được những giấc mơ
thơ mộng như thế nữa, bao giờ mới lại được sống ngày thanh bình mà người ta lấy
tay vuốt ve từng cái lá, nương gót chân đi sợ làm đau từng ngọn cỏ, mà cũng đến
bao giờ Nam, Bắc mới hết qua phân để cho người li hương lại được trở lại quê
nhà vui dưới mái nghèo, kể lại tình kiều tử mười mấy năm đằng đẵng và cùng nhau
nhắc lại hồn quan sơn trong lửa đạn dãi dầu.
Người đàn ông sầu nhớ giao thừa Bắc Việt gục đầu xuống những
trang sách cũ, chợp mắt đi lúc nào không biết và y cũng không biết rằng những ý
nghĩ vừa hiện ra trong trí óc đều là những ý nghĩ hiện lên trong khi y ngủ. Mệt
quá chừng là những phút buồn khổ một mình, không biết than cùng ai, khóc với
ai, nhất là chính mình lại biết rằng trong khi buồn khổ như thế thì trăm họ ở
chung quanh lại vui tươi – dù là cái vui tươi mù loà giả tạo, cái vui tươi chửi
rủa những người lương thiện bị coi là ngu ngốc vì không biết khuây khoả trăm
sầu ngàn giận mà lại đi sụt sùi thở ngắn than dài.
Cách đây mươi mười lăm năm, đúng như nhà thi sĩ “nấn ná ở
nơi xa” đã nói, Sài thành không biết có xuân sang và ăn cái giao thừa không
bằng vui cái đêm lễ Giáng Sinh. Nhưng bây giờ đã khác: xa xa, có tiếng giày dép
người ta đi lễ giao thừa. Súng nổ ầm ầm thay tiếng pháo. Ti vi và truyền thanh
hát oang oang những khúc vui xuân…
Người khách li hương cúi xuống đường, nhìn xem cái giao thừa
ở đây khác cái giao thừa ở Bắc ra sao thì vừa vặn có một người lê bước trên
đường, nhìn một cành mai cầm ở tay mà đưa lên câu sầu xứ:
Nhớ nhà quăng chén rượu,
Thôi rồi, những ngày vui!
Đâu đây rền lửa đạn,
Có tiếng ai sụt sùi…
Vàng bay năm lại hết
Lại vẫn không giao thừa…
Ới bạn trăm năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?