Khoảng thời gian xa tít mù gần bốn mươi năm làm biến đổi mọi
điều nhanh quá. Kha bây giờ đã có râu quai nón bạc trắng y hệt như ông
Hemingway lúc về già hay ca sĩ Billy Joel chứ không phải là mặt thon cằm nhọn
kiểu nghệ sĩ hồi xưa nữa. Kha làm chuyên viên về an toàn công nghiệp cho
một hãng xăng dầu lớn bên Mỹ, sống độc thân và gần bốn mươi năm nay chưa về
Việt Nam.
Vậy mà bỗng dưng anh xuất hiện trong buổi tối họp mặt cuối năm, sau ngày đưa
ông Táo. Cả lớp hẹn gặp nhau chỉ vì vào Tết e là khó gặp. Thời buổi này, nhiều
gia đình không ăn Tết ở nhà. Ai không đưa vợ con về quê thì đi du lịch. Thôi
thì hẹn nhau nấu bánh tét ở nhà một đứa tuốt miệt Bà Quẹo hồi tưởng chút thời
xuân xanh bạn bè bên nhau vậy. Nghe cái tên quê trớt vậy nhưng Bà Quẹo giờ là
khu đô thị sầm uất, đông nghẹt người và xe. Kha bảo không tìm đâu ra cái sân đá
banh ven đường Tân Kỳ - Tân Quý hồi xưa nữa.
VỊ QUÊ NHÀ
PHẠM CÔNG LUẬN
Khu nhà Khải, “ngõ trúc quanh co khách vắng teo” là con
đường đất mọc đầy bụi tre không tìm thấy đâu, biến luôn cái sân đất hồi còn đi
học Khải ngồi đan sọt tre như ông Phạm Ngũ Lão. Kha bảo đến buổi họp mặt sớm để
nói chuyện được nhiều hơn.
Gần bốn mươi năm cuộc đời như bóng câu qua cửa sổ, từ khi
giã từ ngôi trường thân yêu góc ngã tư Bảy Hiền. Kha nói ăn Tết bên Mỹ chẳng
khác nào ngồi rảnh mở xem cuốn album cũ của gia đình, để hồn vía bay lơ lửng về
tuổi thơ, về quê hương và về những người thân còn sống hay đã mất.
Chủ nhà là Hùng đã chuẩn bị nổi lửa cho nồi bánh chưng. Bạn
bè lục tục kéo đến, ngồi nhai mấy sợi khô bò và nhấm nháp chút rượu do Kha mang
về. Ðều là những người sinh ra trên đất Sài Gòn - Gia Ðịnh, họ không có một quê
nhà để nhớ tuổi thơ thả diều bắt bướm. Nhưng ai cũng có người thân sống xa đất
nước và hiểu tâm trạng của người tha hương.
Năm nay Luận Nguyễn không về, Quy, Mừng, Thanh Tâm, Thu Tâm,
Long, Phong cũng không về. May mà có Kha làm cho cái đêm họp mặt cuối năm bất
ngờ và ấm cúng.
Hùng khơi thêm ngọn lửa, thầm thì bằng cái giọng trầm trầm:
“Tui nhớ nhất cái Tết hồi nhỏ trên đất Bà Quẹo này. Ngày Tết, nhà nghèo cũng có
đầy đủ thịt kho dưa giá, củ kiệu, tôm khô. Nhưng rồi ba ngày Tết cũng trôi qua,
nhà hết đồ ăn.
Sáng sớm má tui xách giỏ ra chợ Bà Quẹo, mua vài trái bầu
non. Về nhà, bà luộc vài cái trứng vịt dầm nước mắm, cả nhà bắt đầu trở lại giờ
ăn bình thường. Mấy ngày Tết ăn bánh mứt thịt thà nhiều, ngán gần chết! Ăn bữa
cơm đầu năm với bầu non và hột vịt dầm nước mắm sao mà ngon quá, nhớ mãi.
Hôm sau nữa, má tui đi chợ mua thật nhiều rau, cà rốt về nhà
làm nồi nước mắm kho quẹt, cả nhà ăn không còn một hột cơm dính nồi. Lúc đó tôi
nghĩ má như một bà tiên, làm món nào cho con ăn cũng ngon.
Ba tui giờ đã mất. Ðất này xưa là ngoại thành giờ không còn
thấy một chiếc xe ngựa. Nhà cửa chung quanh đều xây cao tầng. Vài anh chị cũng
không còn trên cõi đời. Má già yếu lắm, Tết đến má thèm được tự tay gói bánh
tét nhưng không còn sức để làm.
Nhỏ em gái sau này có tổ chức thi gói bánh tét cho các chị
em dâu và cháu đêm ba mươi để má truyền nghề, nhưng xem ra không có đứa cháu
hay dâu nào để làm truyền nhân của má. Chắc nghề của má bị thất truyền rồi! May
là hôm nay có bà chị họ biết gói bánh nên mình có để nấu.
Tết năm vừa rồi, ngày mùng hai nhà tui cũng làm món bầu non
luộc ăn với hột vịt dầm nước mắm. Mùng ba thì ăn rau tập tàng với nước mắm kho
quẹt. Ăn hết ngon như hồi đó, nhưng ăn để nhớ má hồi còn trẻ thương yêu con, và
để nhớ tiếng lóc cóc xe ngựa của ba, mùi bánh tét trong nồi đang sôi ùng ục của
má”.
Nãy giờ Diệp không nói gì, lui cui ngồi lột vỏ mấy trái
bưởi. Ngoài đầu ngõ nhà Hùng vắng dần người qua lại. Ðám đàn ông đã có anh buồn
ngủ lăn ra trên ghế sofa. Mấy chị nãy giờ im lặng nghe Kha, hỏi lại vài câu. Họ
thấy bùi ngùi sau câu chuyện của Hùng.
Họ nhớ lại tuổi trẻ với những cảm xúc trong veo mà thấy rưng
rưng. Giờ ai cũng đã hai thứ tóc nhưng dường như rung cảm bên trong lòng còn
nguyên vẹn. Diệp nhấm nháp miếng mứt gừng, góp chuyện:
“Nói chuyện ăn Tết hồi nhỏ, Diệp thích nhất là món bánh
tráng cuốn thịt phá lấu. Mỗi khi Diệp nói thèm là mẹ hứa đến Tết sẽ làm, lúc đó
tha hồ mà ăn, chứ ăn bây giờ thì mất ngon vì không có củ kiệu. Mà đúng như vậy,
cái bánh tráng cuốn khi cuốn mà thiếu củ kiệu bên trong và chén nước mắm không
thoang thoảng mùi nước kiệu pha vào thì mất đi một nửa cái hương vị đăc trưng
của món ngon này.
Món này đơn thuần là thịt được ướp thêm ngũ vị hương nên cả
nhà gọi là thịt “phá lấu”, gọi là thịt ram cũng được. Bà ngoại chồng Diệp không
ướp cách đó, bà gọi đó là thịt khìa, chỉ cuốn với bánh tráng rau sống, chấm
nước mắm, khác với cách của mẹ.
Biết con cái đứa nào cũng thích món thịt cuốn bánh tráng, mẹ
mua thịt lúc nào cũng nhiều, có thịt đùi, ba rọi. Từng tảng thịt mua về được
rửa sạch sẽ để ráo nước, sau khi được xẻ rời ra thành từng khổ thịt đều nhau,
mẹ ướp gia vị gồm muối, đường, bột ngọt, hành tím, tỏi băm, thêm ít nước tương.
Ðặc biệt không thể quên gói ngũ vị hương. Sau khi trở vài
lần cho thịt thấm đều, mẹ dùng những sợi dây lạc quấn vòng quanh khổ thịt thật
chắc. Cái chảo to đã nóng lên sôi lăn tăn với vài muôi mỡ, thịt được xếp vào
nghe từng tiếng xèo xèo, mùi ngũ vị hương dậy lên thơm phức.
Những khổ thịt trông như những đòn bánh tét. Khi hai mặt
thịt đã sém vàng, mẹ cho vào ít nước sôi, nêm thêm chút gia vị để khi chín mềm
thịt được đậm đà hơn. Ðậy hờ cái nắp xoong sau khi vớt đi ít bọt bẩn của thịt
tiết ra, ngọn lửa chỉ để liu riu đến khi cạn chỉ còn ít nước. Chị em trong nhà
đứa nào cũng mặt mày hớn hở đi ra đi vào, hít lấy hít để cái mùi thơm nồng bay
khắp nhà.
Ðến giờ ăn dọn trên mâm, nào là rau húng quế, húng cây, húng
lủi, tía tô, dấp cá, rau răm, salad đầy cả rổ. Củ kiệu thì cả tô, thêm đĩa đồ
chua làm từ cà rốt và củ cải trắng được xắn bằng miếng thiếc có dợn sóng. Ðĩa
thịt đầy ụ được thái mỏng nhưng thật liền lạc vì đòn thịt đã được thít chặt bởi
những sợi dây lạc quấn xung quanh.
Thêm một đĩa bún khô xào với bắp cải nồi, sợi cải được cắt
nhỏ chỉ lớn hơn sợi bún chút thôi, không cắt nát quá. Lấy nước kiệu hòa chung
với nước mắm ngon, ít nước lọc, đường cát, không thêm gì hơn ngoài tí ớt cho đo
đỏ. Thế là đã có tô nước chấm.
Chị em nhà Diệp như bầy gà con ngồi bao quanh mâm thức ăn,
đứa nào cũng có cái đĩa trẹt trước mặt. Bánh tráng sau khi được nhúng vào nước
cả xấp, mỗi đứa tự gỡ rời ra đặt vào đĩa. Ðặt thêm vài lá salad, ít rau thơm,
một nhúm bún xào, mấy chiếc củ kiệu nhỏ, vài sợi đồ chua, tất cả trải dài theo chiếc
bánh tráng với những miếng thịt phá lấu thơm phưng phức.
Cái món thịt cuốn chỉ đơn giản vậy thôi, nhưng Diệp luôn
thích và nhớ về nó. Ðứa em gái theo chồng phương xa, đến Tết nó lại nhắc tiếc
hoài lần về Việt Nam, bạn bè hay rủ rê đi chơi đây đó, nó không kịp đòi mẹ cho
ăn món thịt phá lấu này cho đã thèm. Còn thằng em trai mỗi khi Diệp chê miếng
thịt nào nhiều mỡ là đưa cho nó. Nó khoái chí nói ăn thịt mỡ mới ngon, gật gù
thích thú lắm.
Nói một chút về thằng em trai của Diệp. Năm 2009, một cơn
đột quỵ đã xô ngã nó khi vừa bước sang tuổi 43. Ðể chấp nhận nỗi đau đớn này,
nó vật vã một thời gian dài. Dần dà nó nhận thức được mọi việc, chấp nhận sự
thật là tương lai sự nghiệp của nó đã chấm hết từ đây. Tính tình nó bớt hung
hãn. Ai nói thì nó hiểu hết nhưng nó nói và diễn tả không ai hiểu được.
Vậy mà khi được ăn vài chiếc thịt cuốn bánh tráng, cái món
thịt phá lấu cuốn “đặc biệt” ngày xưa của mẹ là nó biết và nhớ ngay. Nhìn nó
vừa ăn vừa lắc lư người, cái chân còn lại rung rung ra chiều đắc ý, nhìn cũng
vui lây mà cũng tội nghiệp! Từ đó, mỗi lần nó ra dấu là biết nó muốn ăn gì, hỏi
là đúng ý nó ngay. Ðã mấy cái Tết rồi cô em dâu của Diệp chỉ làm mỗi một chảo
thịt phá lấu to để chồng ăn dần đến hết Tết”.
Kha ngồi im lặng. Có một câu chuyện Kha định kể trong một
đêm hiếm có như đêm nay, khi bạn bè có dịp tụ họp với nhau, một đêm không có
pháo hoa rực rỡ mà chỉ có ánh lửa nồi bánh tét, không có bà tiên ông Bụt nào,
mà chỉ là những gương mặt bạn bè tuổi xanh đã thay đổi theo thời gian. Mấy chục
năm sống ở xứ người, Kha nghĩ mình đã xem nơi đó là quê hương.
Quê hương với mùa lá đỏ vào thu, mùa xuân rực rỡ hoa xung
quanh ngôi nhà ở Seabrook - Texas,
với ông hàng xóm là phi hành gia từng bay lên vũ trụ. Kha muốn kể câu chuyện về
một đêm có bão tuyết, xe Kha bị lạc trên con đường xuyên rừng và sa xuống ruộng
lầy, may có người kéo giúp ra khỏi và phải tấp vào một quán khuya sắp đóng cửa.
Sau đó có đôi vợ chồng người Mỹ địa phương thấy khách lạ bơ
vơ mà mời Kha về nhà cho ngủ lại qua cơn bão, dù trong bụng vẫn có chút lo sợ
mơ hồ. Ðó là một đêm gần lễ Tạ ơn, khiến anh khả quyết rằng đây chính là mảnh
đất quê hương của mình.
Vậy mà đêm nay, những câu chuyện kể về món ăn ngày Tết như
đánh thức một điều gì rất cũ kỹ bám mạng nhện thời gian trong lòng, mà Kha ngỡ
nó mỏng mảnh gần như là không thấy được để gắn tâm hồn Kha với quê nhà. Kha ngả
lưng xuống tấm nệm trải góc phòng, nghe thoang thoảng có mùi củi the the tỏa ra
từ dưới nồi bánh tét.
Trong đầu Kha, những câu thơ cũ chợt hiện lên không nhớ của
ai, đã đọc và đã nhớ:
Quê hương này là của chúng ta
Địa ngục này, thiên đường này đều của chúng ta
Giấc mơ này của chúng ta...
Kha nhắm mắt mơ màng ngủ trong tiếng thì thầm tâm sự của đám
bạn gái vẫn thức canh nồi bánh tét. Tuổi trung niên tuyệt vời, hiểu được cuộc
sống nhiều chiều và vẫn còn đủ nồng nhiệt để khao khát mơ điều gì đó phía
trước. Không cụ thể, nhiều khi chỉ là:
Cho tôi phơi hồn tôi trên mái ngói
Cho tôi đốt hồn tôi khói khắp chân trời...
Bây giờ, mong muốn của Kha là chìm vào giấc ngủ, chập chờn
nhưng sao êm đềm lạ thường giữa vùng Bà Quẹo