Người ta bảo người già thường hay nghĩ ngợi, hoài niệm
về những gì đã qua. Quả thật, ở cái tuổi "ngũ thập tri thiên mệnh",
nhất là vào những ngày năm mới rảnh rang, trong cái man mác của tiết xuân, khí
xuân, ký ức về những ngày xa xưa một thời Việt Bắc lại chầm chậm trở về... Tôi
nhớ lại ngày nhỏ sống cùng nhiều văn nghệ sĩ ở Khu tự trị Việt Bắc, vào những
năm 70 của thế kỷ XX. Có biết bao kỷ niệm về những con người bình dị mà sau này
tôi mới hiểu hết được tài năng và đóng góp của họ cho văn học, nghệ thuật nước
nhà.
NHỚ QUẢ ĐỒI VĂN NGHỆ Ở VIỆT BẮC
VI KIẾN THÀNH
Năm tôi sáu tuổi, cả gia đình từ Hà Nội sơ tán lên
Thái Nguyên, sống trong khu tập thể nhà tranh vách đất liền kề trụ sở cơ quan của
mẹ tôi là Sở Văn hóa - Thông tin Khu tự trị Việt Bắc. Bố tôi lúc đó là giảng
viên khoa Mỹ thuật của Trường Văn hóa nghệ thuật Việt Bắc. Thời đó, các tỉnh có
Ty Văn hóa -Thông tin; Sở Văn hóa - Thông tin là của Khu tự trị quản lý và là cấp
trên theo ngành dọc của sáu Ty Văn hóa - Thông tin các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.
Ngày ấy, mỗi khi bác Nông Quốc Chấn - nhà thơ, Thứ
trưởng Bộ Văn hóa về Sở Văn hóa - Thông tin Khu tự trị làm việc là một sự kiện
lớn của cả Sở mà lũ trẻ con lau nhau trong khu tập thể cũng háo hức muốn được
ngắm nhìn chiếc xe ô-tô bốn chỗ của bác đỗ trong sân Sở. Sở Văn hóa - Thông tin
lúc đó đóng ở một quả đồi gần chùa Phủ Liễn - Thị xã Thái Nguyên. Trẻ con chúng
tôi gọi là "đồi ông Tấn", vì đấy nguyên là biệt thự của Thượng tướng
Chu Văn Tấn. Toàn bộ khu biệt thự này trở thành trụ sở của Sở Văn hóa - Thông
tin.
Giám đốc Sở lúc đó là nhà thơ Bàn Tài Đoàn, người
dân tộc Dao. Ngày đó, tôi cũng chỉ biết rất sơ lược ông là tác giả bài thơ
"Muối Cụ Hồ" và tập thơ "Có mắt thấy đường đi". Cái tôi nhớ
kỹ hơn về ông lại là những chuyện ngoài thơ ca. Ông bị rắn độc cắn nên phải cưa
một chân đến đầu gối, hằng ngày phải lắp chân giả, đi lại khó khăn nên phòng
làm việc và phòng ở của ông ở ngay tại tầng hai của ngôi biệt thự.
Cứ chiều tối, hết giờ hành chính, ông thường ngồi ở
ban công hóng mát và tháo cái chân giả ra. Bọn trẻ là con của cán bộ
trong Sở kéo nhau lên chơi với ông. Thấy chúng chạy từ dưới cầu thang lên, ông
liền thò cái chân bị cụt qua lan can ban công lắc lắc, nhìn đến khiếp! Nhiều đứa
sợ bỏ chạy tán loạn, còn ông thì khoái chí cười vang cả tòa nhà.
Một nhân vật hết sức độc đáo để lại dấu ấn sâu đậm
trong ký ức thơ trẻ của chúng tôi là họa sĩ Sĩ Tốt. Bọn trẻ con chúng tôi rất sợ
nhưng vẫn hay trêu đùa ông. Phòng làm việc và ở của ông nhìn ngay ra sân
chung của cơ quan, nơi tụi trẻ con vẫn dùng làm sân đá bóng. Nhiều lần quả bóng
"sút" thẳng vào nhà trong lúc ông đang say sưa vẽ làm ông "cáu
tiết". Ông giữ lại hàng mấy tiếng sau mới trả, mặc cho bọn trẻ kỳ kèo, năn
nỉ.
Ông to cao như một lão nông, đầu húi cua, thỉnh thoảng
lại đem cây súng săn hai nòng và đạn ghém ra cửa ngồi lau chùi kỹ lưỡng, chúng
tôi xúm lại xem rất say sưa, kính nể. Mặc dù ông có thú vui vào rừng săn bắn,
nhưng chưa lần nào tôi thấy ông mang chiến lợi phẩm về, song riêng khoản trồng
cây lấy củ thì rất tài! Tất cả những cây ông trồng đều có củ, quả nhiều và to
hơn của người khác trồng, điều này đến tận bây giờ tôi cũng không thể hiểu vì
sao (?!)
Họa sĩ Sĩ Tốt có nhiều tác phẩm sơn dầu được lưu giữ
ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam như: "Đứa nào cũng được học"; "Tiếng
đàn bầu"; "Ơ bố" … Ông miệt mài, không ngày nào không vẽ. Đi làm
thầy dạy cho các lớp vẽ quần chúng, có những lúc không tìm được mẫu khỏa thân để
vẽ nghiên cứu giải phẫu, thầy Sĩ Tốt khỏa thân làm mẫu luôn! Rồi vừa đứng mẫu,
ông vừa giảng giải phân tích cấu trúc xương, cơ cho học trò. Ông mất năm 2002,
năm 2007 được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Ông có tiếng
là người tạo được phong trào "nông dân vẽ" khi đưa cả làng Cổ Đô (Ba
Vì) quê hương trở thành "làng họa sĩ", thành lập Bảo tàng Sĩ Tốt. Hai
người con trai ông đều theo nghiệp cha.
Trong Sở ngày ấy có Phòng Điện ảnh và Nhiếp ảnh.
Đoàn làm phim gồm các đạo diễn Chu Thi, Lô Cường; quay phim có Lê Phạnh, Hoàng
Bình Hòa, Trần Thông - những người đã làm nên "Việt Bắc với Bác Hồ",
bộ phim tài liệu đầu tiên và duy nhất của điện ảnh Khu tự trị Việt Bắc. Tôi
không nhớ đã xem bao nhiêu lần, nhưng đó là bộ phim hay, rất xúc động và chân
thực. Sau này, các nhà làm phim đều chuyển sang làm những phóng viên nhiếp ảnh
của Khu tự trị Việt Bắc. Nhà quay phim Hoàng Bình Hòa về công tác ở Hãng phim
Tài liệu Khoa học Trung ương, năm 1979 đi quay phim chiến tranh bảo vệ biên giới
phía Bắc bị thương ở đầu khi đang mải bấm máy, sau này mất vì xuất huyết não.
Một nhân vật giản dị là nhà văn Nông Minh Châu, tác
giả cuốn truyện ngắn "Ché mèn được đi học" khá nổi tiếng. Ông Châu nhỏ
nhẹ, ít nói, sống một mình trong căn phòng đầu hồi dãy nhà, vừa là phòng làm việc,
vừa để ở. Ông lặng lẽ viết văn, viết nghiên cứu sưu tầm và ngày nào cũng phải
tiêm thuốc vì bị bệnh tim.
Cách Sở Văn hóa - Thông tin vài cánh đồng là một quả
đồi thấp hơn, nơi đặt trụ sở của Đoàn Văn công Việt Bắc. Ở đoàn có nhiều nghệ
sĩ nhưng tôi chỉ nhớ được một số người như họa sĩ Đỗ Tố, biên đạo Vương Thào,
ca sĩ Lê Khình…
Với tôi, trong khu tập thể Sở Văn hóa - Thông tin
ngày ấy, gia đình nhạc sĩ Tuấn Long có nhiều kỷ niệm đặc biệt. Tuấn Long công
tác ở Đoàn Văn công Quân khu Việt Bắc, qua ông mà tôi được biết mặt biết tên
các nghệ sĩ như nhạc sĩ Nguyễn Lầy, ca sĩ Lê Hằng. Nhạc sĩ Tuấn Long có hai người
con trai, sau này đều là những nghệ sĩ tên tuổi của thế hệ chúng tôi. Đó là họa
sĩ Tuấn Vinh và nhạc sĩ Thanh Phương.
Tuấn Vinh tài năng và đào hoa. Học mỹ thuật nhưng
Vinh chơi ghi ta, thổi sáo đều xuất sắc; tự chế tạo đàn ghi ta điện, làm được
sáo Mèo; thời học Đại học Mỹ thuật Việt Nam (Yết Kiêu, Hà Nội), Vinh phá không
biết bao nhiêu tủ gỗ của trường để làm đàn ghi ta. Vinh thổi sáo Mèo hay không
kém NSND Lương Kim Vĩnh. Tuấn Vinh cũng rất thích đi săn, có thể theo đuổi mấy
cánh rừng để săn bằng được một con thú.
Tôi thuộc lứa đàn em, kém Vinh dăm tuổi, khi đó hay
đi soi đèn pin trong đêm cho anh bắn chim, xong mò mẫm vào các bụi cây tìm nhặt
về cả bọn đánh chén. Vinh thích nuôi sáo và hay "xạo", trêu chọc mọi
người bằng cách giả sáo nói. Vinh còn có thú "tầm" xe Vespa cổ, lang
thang chở bạn bè đi chơi, đi săn, nhiều lúc xe hỏng giữa đường vừa đi vừa sửa.
Có lần, anh chở họa sĩ Thế Minh, nguyên Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và
Triển lãm rong ruổi khắp vùng Bình Gia (Lạng Sơn) ngắm phong cảnh tuyệt đẹp của
nhà sàn với hoa mơ, hoa mận, hoa đào; có ngày làm ông Minh "toát mồ
hôi" vì mải theo con mồi cả buổi trong rừng (!)
Vinh dạy Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Việt Bắc, là
người lãng tử, tài hoa, vẽ ít mà đẹp. Anh từng sáng tạo ra chất liệu nho mài
trên giấy đúp-lếch tạo hiệu quả khá lạ; sau này được nhiều sinh viên tiếp tục
theo đuổi. Dường như tất cả những gì hấp dẫn của một người đàn ông Tuấn Vinh đều
có, tôi không nhớ hết được những người phụ nữ đã yêu anh. Có lẽ cũng vì quá tài
hoa nên Vinh ra đi sớm; anh mất trong một tai nạn giao thông ở lứa tuổi ngoài
40 đầy sung sức.
Khác hẳn anh trai mình, Thanh Phương, em trai Tuấn
Vinh lại là người trầm tĩnh, kín đáo. Phương là cây ghi ta đẳng cấp và là nhạc sĩ
phối khí tài năng; từng tham gia ban nhạc Phương Đông; đệm ghi ta cho các diva
Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh; thu âm cùng ban nhạc Bức Tường, The light; cùng
Quốc Trung làm Giám đốc âm nhạc, phối khí cho chương trình Giai điệu tự hào…
Trong giới âm nhạc hiện nay Phương có một vị trí không thể phủ nhận...
Năm 1980, tôi rời "đồi ông Tấn" về
Hà Nội học hành, lập nghiệp. Theo năm tháng, những nghệ sỹ ngày đó cũng mỗi người
một phương, tiếp tục hành trình, trở thành những tên tuổi trong nền văn nghệ nước
nhà, trong đó có những người đã khuất. Vì cuộc sống và công việc, rất ít khi
tôi gặp lại họ. Có lần về thăm làng Cổ Đô, tôi được gặp họa sĩ Sĩ Tốt đã ở tuổi
ngoài 70, không còn khỏe. Những kỷ niệm xưa cùng chúng tôi sống lại bồi hồi…
Nhớ những ngày ở Việt Bắc, nhớ những văn nghệ sĩ một
thời quây quần nơi mảnh đất bình dị, trong một thời điểm đáng nhớ của cách mạng
và dân tộc. Thấy mùa xuân này thêm rưng rưng, sâu nặng nhiều điều…