Từ khi ra đời tới nay, "Truyện Kiều" đã trở thành
tác phẩm văn học thẩm thấu vào tâm trí người Việt với biết bao dạng thức như
ngâm Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều… "Truyện Kiều" cũng là một tác phẩm văn
học kiệt xuất của dân tộc Việt Nam
trên diễn đàn văn hóa thế giới. Bản thân tác giả của "Truyện Kiều" là
đại thi hào Nguyễn Du cũng trở thành Danh nhân văn hóa Thế giới. Thế nhưng,
nhiều ý nghĩa của tác phẩm này đã bị hậu thế hiểu sai đi hoặc làm "méo
mó". Cách đây gần trăm năm, Phạm Quỳnh, cố học giả, nhà báo, nhà văn, đã
viết: ""Truyện Kiều" còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta
còn…". Nếu hậu nhân cứ theo ý mình làm "méo mó" "Truyện
Kiều" thì không biết văn hóa nước ta sẽ trông vào đâu để định hình?
HẬU NHÂN LÀM MÉO MÓ TRUYỆN KIỀU
NGUYỄN VĂN TOÀN
Vua Tự Đức "sửa" "Truyện Kiều"
Nhiều tài liệu viết rằng, sau khi Nguyễn Du viết xong
"Truyện Kiều", những bạn hữu của ông đọc rồi đem khắc bản gỗ và bán
tại các cửa hàng sách. Sau đó, người ta thêm, bớt, sửa chữa và lại đem khắc in.
Chẳng hạn, trong bài Tựa quyển "Đoạn Trường Tân Thanh" (tên Nguyễn Du
đặt cho "Truyện Kiều"), ông Đào Nguyên Phổ, một vị quan nhà Nguyễn có
viết rằng: "Mùa hè năm Mậu Tuất 1898, tôi ở Kinh về vinh quy, có đem quyển
"Truyện Kiều" ấy biếu ông Kiều Oánh Mậu.
Ông Kiều Oánh Mậu đã theo bản Kinh ấy mà tham khảo, chép
theo một số chữ và còn ghi thêm những câu của bản Kinh khác với bản
Phường…". Vị quan họ Đào này viết tiếp: "Truyện giai nhân diễn thành
giai tác, lại đượm hương trời càng là thêm vẻ, nên chi người ngâm vịnh quý hơn
được ngọc bích, tranh nhau sao chép đến nỗi giá giấy đắt như giấy quý Lạc
Đô". Như vậy, "Truyện Kiều" đã không còn nguyên bản như Nguyễn
Du viết. Bởi ngoài nguyên bản của Nguyễn Du còn có bản Phường của Phạm Quý
Thích, bản Kinh do vua Tự Đức sửa chữa mà thành và nhiều bản quốc ngữ khác
nhau.
Vua Tự Đức "mê" "Truyện Kiều". Điều này
đã được dân gian vì von: Mê gì? Mê đánh tổ tôm/Mê ngựa hộ bổn, mê nôm Thúy
Kiều. Và tuy là người hay bắt bẻ nhưng đọc "Truyện Kiều" của Nguyễn
Du, Tự Đức cũng phải công nhận đúng là "hàng hàng châu ngọc lời lời gấm
thêu". Có giai thoại rằng, sau khi đọc "Truyện Kiều", vua Tự Đức
bỗng dưng đùng đùng nổi giận: "Nếu Tố Như (tên tự của Nguyễn Du) mà còn
sống, phải nọc nằm xuống đánh cho 30 roi!". Bởi khi viết về Từ Hải, Nguyễn
Du đã viết: "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!", đó là hình ảnh của
Nguyễn Huệ ngày xưa trong liên tưởng của Tự Đức. Bởi qua thơ, vua Tự Đức thường
xét lập trường chính trị của tác giả.
Còn một điều nữa là vua Tự Đức tên là Nguyễn Phúc Thì. Nhưng
trong "Truyện Kiều" chỗ nào có chữ "Thì" thường là xấu xa
bỉ ổi: "Khi thì lừa đảo, nơi thì ai thương?" (2.291), "Chẳng
phường trốn chúa thì quân lộn chồng" (1.729), "Thôi đà mắc lận thì
thôi đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh" (1.157). Đặc biệt, câu:
"Thì con người ấy ai cầu làm chi" đã được ngắt thành: "Thì/con
người ấy/ai cầu làm chi" và được hiểu theo nghĩa: "Một con người như
Tự Đức thì chẳng ai cầu làm gì!". Như vậy là Nguyễn Du đã mắc vào tội vừa
phạm huý, vừa phạm thượng, một tội rất nặng trong chế độ phong kiến! Cũng may
là Nguyễn Du đã mất và vua Tự Đức cũng cảm phục tài ông nên chỉ tức giận vài
câu mà thôi.
Kiều thành Phật Bà nghìn tay nghìn mắt (?!)
Chắc chúng ta vẫn còn nhớ về vở kịch "Nguyễn Du với
Kiều" do NSND Lan Hương làm đạo diễn và dàn dựng được công diễn lần đầu
vào tháng 2-2012. Nếu như nhiều sự sáng tạo và đột phá của vở kịch "Nguyễn
Du với Kiều" được khán giả đón nhận thì cái kết của nó với hình ảnh nàng
Thúy Kiều hóa thân thành Phật bà nghìn mắt nghìn tay đã khiến dư luận tỏ ra
không đồng tình.
Trả lời báo chí, NSND Lan Hương cũng đã khẳng định:
"Tôi sẽ không thay đổi hình ảnh Phật bà nghìn tay nghìn mắt dù dư luận có
nhiều phản đối". Lý do của NSND Lan Hương đưa ra là: "Kiều là người
kiếp này tu và kiếp sau sẽ tu tiếp. Ý tứ tôi đưa ra chỉ muốn nói Kiều sẽ đi lên
trong vòng tay che chở của đức Phật bởi ngài là người hiểu thấu trái tim nhân
hậu, trong sáng và quá đỗi nhân ái của Kiều". Rõ ràng, câu trả lời của
NSND Lan Hương vẫn không đủ sức để thuyết phục dư luận.
Việc Thúy Kiều được thành Phật bà là một điều không thể xảy
ra. Đọc kỹ đoạn kết "Truyện Kiều" chúng ta sẽ thấy rõ hơn về điều
này. Thứ nhất, đến cuối cùng Kiều vẫn chưa thoát khỏi phong trần. Bởi câu 3243
- 3244 của "Truyện Kiều" cũng là: "Bắt phong trần phải phong
trần/Cho thanh cao mới được phần thanh cao". Như vậy, chuyện phong trần
của Kiều đến cuối cùng vẫn được đại thi hào Nguyễn Du nhắc đến như một
"điểm nhấn". Và Vương Thúy Kiều đến cuối cùng vẫn phải sống ở chốn
hồng trần, vẫn phải kết hôn với Kim Trọng chứ không thể "thanh y" để
trở thành Phật được.
Thứ hai, Thúy Kiều cũng không thể cưỡng lại dục vọng với Kim
Trọng. Bởi lẽ thường con người phong trần như Kiều không thể cưỡng lại được dục
vọng trong tình yêu, nhất là sau khi Kiều đã 15 năm lưu lạc và Kim Trọng vẫn
thủy chung chờ đợi và tìm kiếm nàng. Và dù trong đêm tân hôn, Thúy Kiều có xin
đổi duyên "cầm sắt" (vợ chồng) với Kim Trọng thành duyên "cầm
kỳ" (tri kỷ) thì cũng không ai có thể khẳng định cái duyên "cầm
kỳ" ấy lại chiếm vị thế độc tôn mãi mãi trong cuộc sống vợ chồng giữa hai
con người trần gian xác thịt.
Cuối cùng, kể cả đại thi hào Nguyễn Du cũng không muốn Thúy
Kiều trở thành tiên thành Phật. Trong câu kế cuối của "Truyện Kiều",
Nguyễn Du đã viết rằng: "Thiện tâm ở tại lòng ta". Như vậy Nguyễn Du
có muốn Kiều thành Phật đâu!
Chữ "Trinh" bị hậu thế hiểu sai
Đề thi của Đại học FPT ngày 8-4-2012 có nội dung để thí sinh
bàn về chữ "Trinh" xưa và nay với những câu trong "Truyện
Kiều" làm dẫn chứng. Tuy nhiên, sự khập khiễng về logic đã khiến đề thi
trở thành câu chuyện "lấy râu ông nọ chắp cằm bà kia" và "đầu
voi, đuôi chuột" khá khôi hài. Bởi lẽ chữ "Trinh" trong
"Truyện Kiều" không phải là việc "Ngày xưa, nếu cô dâu bị mất
trinh thì coi như mất hết, hôn nhân đổ vỡ, người vợ bị đem trả lại" như người
ra đề khẳng định.
Cá nhân người viết cũng "thông cảm" cho người ra
đề. Bởi cách hiểu của người ra đề được đặt trong bối cảnh xã hội và dân gian
còn nặng cách hiểu một chiều. Như: "Gái khôn tránh khỏi đò đưa/ Trai khôn
tránh khỏi vợ thừa người ta!".
Nhưng chữ "Trinh" của "Truyện Kiều" lại
là quan niệm riêng của tác giả Nguyễn Du thông qua sự bày tỏ quan điểm của hệ
thống nhân vật của kiệt tác này. Đặc biệt là quan điểm của hai nhân vật Thúy
Kiều và Kim Trọng. Với Thúy Kiều, lúc yêu Kim Trọng, nàng đã dám trèo tường
sang để gặp người yêu nhưng vẫn:
"Thưa rằng đừng lấy làm chơi,
…
Đã cho vào bậc Bố-kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi!"
(câu 499-508)
Sau này, mặc dù bị sa vào chốn bùn nhơ nhưng cuộc đời đó
không do ý muốn của Thúy Kiều. Mục đích của Kiều bán mình chuộc cha là để làm
vợ Mã Giám Sinh chứ không phải vì tiền bạc bán mình vào chốn lầu xanh. Nếu hiểu
sâu xa và nhận xét một cách từ bi quảng đại, thì cái tiết hạnh về lĩnh vực tinh
thần hay đạo lý của nàng đối với Kim Trọng không bị tổn thương. Và khi trở về
với gia đình sau 15 năm lưu lạc hồng trần thì món quà tiết hạnh cao quý còn lại
mà nàng muốn dâng hiến cho Kim Trọng để chu toàn cho cả hai lại là chữ
"Hiếu" và chữ "Tình".
Như vậy, thi hào Nguyễn Du, qua vai trò Kim Trọng, một đại
diện điển hình của chế độ phụ quyền phong kiến (nho sĩ, quan lại) đã làm một
cuộc cách mạng về tư tưởng và đem lại giá trị sống cho phụ nữ, không còn xem
việc trai tơ lấy gái mất "cái màng trinh" là xấu nữa.
Người xưa từng nói "Cọp chết để da, người ta chết để
tiếng". Vì thân xác hay vật chất có thể tan đi, nhưng danh tiết vẫn còn.
Chữ "Trinh" của người xưa vì thế cũng không hẳn là còn trinh theo
nghĩa xác thịt như Đại học FPT đã nhầm lẫn trong đề Văn ngày 8-4-2012.
"Truyện Kiều" còn, tiếng ta còn…"
Thời gian gần đây, chuyện ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, đã
sửa hơn 1.000 chỗ trong 3.254 câu "Truyện Kiều", nghĩa là đã làm méo
mó đi 1/3 kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du đã khiến dư luận bàng hoàng! Lý do
ông Xuân đưa ra là người đọc "Truyện Kiều" ngày nay có rào cản về
điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương. Trong khi đó chữ nghĩa của
"Truyện Kiều" lại rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái
văn cảnh… nên ông sửa lại cho phù hợp (?).
Ngay những câu đầu tiên mở đầu của "Truyện Kiều"
đã bị ông Đỗ Minh Xuân sửa thành "Trải qua mỗi cuộc bể dâu". Tiếp đó,
chẳng hạn, câu: "Trộm nghe thơm nức hương lân/ Một nền Đồng Tước khóa Xuân
hai Kiều" cũng được ông kỹ sư đổi thành "Trộm nghe thơm nức hương lân/
Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều". Có nghĩa là, đài Đồng Tước mà Tào
Tháo kỳ công xây lên để mong cướp được nàng tuyệt thế mỹ nhân Đại Kiều và Tiểu
Kiều - vợ của Tôn Sách và Chu Du - dưới ngòi bút của Nguyễn Du đã biến thành
một cái buồng nhỏ nhoi và thô tục.
Không biết có phải là do ông Đỗ Minh Xuân muốn "nổi
bật" tại cuộc hội thảo về "Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ từ "Truyện
Kiều" đến phong trào Thơ mới" tổ chức vào ngày 15-12-2012 tại khu di
tích Nguyễn Du, Hà Tĩnh không chứ "Truyện Kiều" đã trở thành
"Thơ mới" mất rồi, có còn là tinh túy của đại thi hào Nguyễn Du, Danh
nhân văn hóa Thế giới nữa đâu?
Cách đây gần trăm năm, Phạm Quỳnh, cố học giả, nhà báo, nhà
văn, đã viết: ""Truyện Kiều" còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn,
nước ta còn…". Nếu hậu nhân cứ theo ý mình làm "méo mó"
"Truyện Kiều" thì không biết văn hóa nước ta sẽ trông vào đâu để định
hình?