Ở Tây Nguyên, nhắc đến Pơthi, người ta hiểu đó là lễ
bỏ mả, là những ngày vui nhất trong năm, có thể được xem như tết của người bản
địa. Pơthi chính là khoảng thời gian lí tưởng để nhiều hoạt động vui chơi, giải
trí, văn nghệ dân gian được thể hiện một cách tự giác. Lấy bối cảnh một làng
Jrai cách đây khoảng vài ba chục năm, "Pơthi" (tác giả Thu Loan, NXB
Đà Nẵng năm 2014) kể về những biến đổi liên quan đến số phận con người và cộng
đồng. Từ chỗ đang sống chan hòa với thiên nhiên, muông thú, con người bỗng chốc
tiếp xúc với thế giới văn minh rồi sau đó, để định canh định cư, họ bị nhấc ra
chỗ ở của mình.
Có
một Tây Nguyên méo mó trong tiểu thuyết “Pơthi”
NGUYỄN QUANG TUỆ
Rừng bị tàn phá không thương tiếc, phong tục tập
quán dần mất, con người trở nên hoang mang, mất phương hướng. Sau những thất vọng,
buồn đau, những người Jrai bé nhỏ và tội nghiệp tạm đặt niềm tin vào việc trồng
cao su như một cách vá víu lại màu xanh đã mất của rừng.
Lẽ dĩ nhiên, tiểu thuyết này không viết về Pơthi với
ý nghĩa như đã nêu trên. Người viết bài cũng không nhìn nhận cuốn sách như một
công trình nghiên cứu, mà chỉ xem nó như một văn liệu có liên quan đến văn hóa
Jrai. Từ đó, bước đầu tìm hiểu xem đời sống của cộng đồng đã được tác giả mô tả
trong đó ra sao, có hợp lí và gần với thực tế hay không.
Mặc dù đã trải qua hai cuộc kháng chiến hứng chịu
nhiều bom đạn, cộng thêm những biến đổi mạnh mẽ và toàn diện sau năm 1975,
nhưng trong tác phẩm này, khung cảnh núi rừng thuộc khu vực làng Chan, nơi
"có hơn ba chục nóc nhà" Jrai sinh sống đẹp lạ lùng. Thực vật còn
nguyên vẹn, động vật đông đúc, đa dạng và thân thiện đến độ con người có thể gần
gũi với chúng như vật nuôi. Thú nhiều vô kể, voi về dòng suối gần làng tắm táp,
thậm chí làng còn có cả đội thợ săn đi bẫy voi về thuần phục…
Mọi thứ thật hiền hòa, chẳng hạn đây là một số động
vật hoang dã xuất hiện dọc đường trở về làng của hai đứa trẻ mới lớn vào rừng
chặt cây: "Bầy khỉ ngó nghiêng nhìn cảnh tượng này. Mấy chú nai tròn xoe mắt
trông. Con công đực đang khoe từng chiếc lông đuôi rực rỡ sắc màu liền khép lại,
ngơ ngẩn ngó theo. Một đàn châu chấu bật tanh tách, nhảy dạt ra hai bên nhường
đường"… (tr. 107).
Ở một đoạn khác, nam nhân vật rời làng, lang thang
vào rừng, và thế là: "Thú rừng xem Đih như đồng loại thân quen. Đàn nai
nhìn Đih lững thững giẫm trên thảm lá khô. Lũ gà thơ thẩn tìm mồi. Con báo gấm
hờ hững dòm Đih rồi tiếp tục ngủ ngon lành trong gốc cây"... (tr. 148).
Bỏ qua những chi tiết vô lí đến hài hước, độc giả có
quyền đặt câu hỏi: liệu cách nay khoảng vài ba chục năm, ở đâu đó trên Tây
Nguyên vẫn còn cảnh núi rừng, muông thú "kì thú" (chữ của tiểu thuyết)
đến như vậy chăng? Chúng tôi nghĩ là không, thậm chí trước đó hàng trăm năm, những
cảnh, vật ấy cũng rất khó có thể xảy ra. Những đoạn viết như vừa nêu khá nhiều,
có lẽ chúng chỉ hợp với truyện cổ tích dành cho trẻ nhỏ, chứ nhất định không thể
là tiểu thuyết viết về một vùng đất nhiều biến động Tây Nguyên.
Nếu xem làng Chan nguyên thủy là hình ảnh của một
Tây Nguyên thu nhỏ cách nay 20, 30 năm, thì nhiều khả năng, đó là một vùng đất
"vô chính phủ" dưới nhãn quan của người viết. Nói một cách chính xác
thì, theo những gì mà tiểu thuyết này mô tả, tại đây chính quyền chưa được thiết
lập.
Trong bối cảnh hoang sơ như đã nêu trên, ngày nọ,
khi dân làng đang đi cắt cỏ tranh thì tác giả cho "năm con voi như năm quả
núi đang lừng lững đi tới". Trong chốc lát, nhân vật Mên bị voi giết. Chết,
đem về chôn. Thế là xong. Đương nhiên, tác giả có quyền cắt lấy một mảng, đoạn
của câu chuyện, không nhất thiết phải thế này thế khác, nhưng viết như thế đồng
nghĩa với việc khẳng định nơi này vẫn còn là vùng đất hoang? Cái chết của người
này có thể minh họa cho ý tưởng của tác giả, rằng dân làng đang được sống trong
một môi trường cổ xưa, chưa có chính quyền?
Thiếu vắng chính quyền, làng Chan không hề có điện
thắp sáng (điều này có thể từng xảy ra), không có đường liên làng liên xã (từ
làng ra đường cái vào mùa mưa mất hơn hai ngày đi bộ) và đương nhiên cũng không
có trạm xá hay trường học. Đau ốm tự lo, trẻ con thì chơi bời loanh quanh trong
làng hoặc lên rẫy, vào rừng chứ chưa từng biết đến lớp học là gì (nhưng có người
không học mà vẫn biết đọc, thậm chí có người chưa từng học lớp 1, lớp 2, lại vẫn
có thể lên tỉnh học trường y). Không hề có chính quyền cấp cơ sở, mọi hoạt động
của làng được điều hành bởi một "hội đồng già làng" (chữ của tiểu
thuyết)…
Một ngày ông Duang đi tham quan theo tiêu chuẩn
"già làng trưởng bản tiêu biểu" bằng ôtô, từ huyện trở về, kể:
"Chô cha! Lũ tui được ngồi trong những hộp sắt. Nó to như con voi".
Ông Duang cũng là người đã lặp lại cách diễn đạt được cho là của một nhân vật
trong lịch sử nước ta hồi thế kỉ 19, khi nói về bóng điện: "Ngoài huyện có
nhiều thứ lạ lắm. Ngọn đèn để ngược cũng sáng. Mưa to, gió mạnh cũng không tắt.
Quạt có ba tai to như tai voi. Mỗi lần quay là sinh ra gió. Mình không phải làm
gì hết". Ở một đoạn khác, khi được cháu trai trả lời rằng việc khai thác gỗ
là quyền của nhà nước, già làng Duch đã hỏi: "Nhà nước ở đâu to thế?"
(tr. 193) v.v...
Có lẽ tác giả đã vội quên rằng, suốt hai cuộc kháng
chiến vừa qua, Tây Nguyên vừa là địa bàn chiến lược, là tiền tuyến, cũng lại vừa
là hậu phương của các lực lượng vũ trang cách mạng. Có thể nói mà không sợ sai
rằng, không có một buôn làng nào đứng ngoài các cuộc chiến đó. Tắm mình trong
chiến tranh, đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên biết đến nhiều loại vũ
khí, máy bay, xe tăng, thiết giáp, tiếp xúc với rất nhiều người Kinh (bộ đội,
cán bộ), thậm chí là cả người Pháp và người Mỹ trong một số trường hợp, chứ
không phải như nhà văn viết, rằng đến thời điểm đó vẫn chưa ai trong làng Chan
biết ôtô, xe đạp là gì. Cần nhớ rằng, từ những năm 20 của thế kỉ trước, ông Nay
Der đã là nhà giáo, đi theo cách mạng rồi trở thành một trong những trí thức
tiêu biểu của dân tộc Jrai ở miền đất này; từ 1955, Núp đã được phong danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang. Cả hai ông đều là đại biểu quốc hội từ rất sớm.
Cố gắng tạo dựng hình ảnh một cộng đồng truyền thống
nguyên bản, cho dù vô tình hay cố ý, người viết cũng đã thực sự vượt quá giới hạn
của sức tưởng tượng, vô lí đến mức khó có thể chấp nhận.
Cuốn sách này có một số đoạn liên quan đến phong tục
tập quán cổ truyền của người Jrai. Nhân vật bị voi quật chết, được đưa lên nhà
sàn "cả gia đình ngồi quanh bên nhau, cạnh thi thể bà Mên (…) Mọi người hối
hả chuẩn bị bữa cơm cuối cùng cho người chết (…) Lời khấn dứt, mọi người đứng dậy,
chậm rãi đi quanh thi thể bà Mên. Mỗi người cầm một nắm cơm nhỏ, chấm vào môi
người chết. Họ như ăn chính miếng cơm người chết đã ăn, như để nhớ và lưu giữ
mãi mùi da thịt người đó. Nhớ và lưu giữ thật lâu trong kí ức" (tr. 54,
55, 56).
Người Jrai truyền thống (như làng Chan trong sách)
dù có thương xót đến mấy cũng không bao giờ cho phép đưa thi thể của những người
chết vì rắn cắn, hổ vồ, cây đè,… hoặc như trường hợp này là voi quật chết, vào
nhà. Bà con gọi đó là những cái chết bất thường, họ có cách ứng xử riêng rất
nhân văn nhưng nhất định là không giống như những gì nhà văn đã viết. Việc chấm
cơm vào miệng người chết "để nhớ và lưu giữ mãi mùi da thịt người đó"
vì vậy, đương nhiên cũng không thể xảy ra, như đã dẫn.
Cảnh đâm trâu trong lễ cầu mưa: "Giữa tiếng cồng
chiêng thúc giục rộn rã, tiếng dân làng hò reo nghiêng trời dậy đất già Duch xuất
hiện như một tráng sỹ oai phong. Già cầm cây lao nhọn hoắt, ánh thép sáng quắc
(…) nhá thử, nhá thử mấy lần rồi bất thình lình, nhoằng một cái, mũi lao cắm
đúng ngực con vật. Trâu lảo đảo, máu tuôn ra nóng hổi (…). Tốp thanh niên cởi
trần, đóng khố (…) đã thủ sẵn lao, mác phóng vào trâu tới tấp. Các mũi lao thi
nhau xuyên qua cổ, dính trên lưng, giắt dưới bụng, găm trên đầu… Thực ra, mũi
lao đầu tiên của già Duch đã lấy đi cuộc sống của trâu rồi. Phần còn lại để các
chàng trai thể hiện sức mạnh và luyện tập sự chính xác mà thôi"…
Người viết gọi việc đâm, chém thêm kể trên là để
"thể hiện sức mạnh và luyện tập" hay "chiến công chói lọi",
chúng tôi không bàn. Chỉ xin nhắc rằng, trong nghi lễ đâm trâu truyền thống,
người Jrai xưa không có thói đâm thêm chém bồi loạn xạ như vậy, sau khi mũi
giáo chính xác đầu tiên đã được thực hiện. Vì lẽ đó mà người đâm trâu giỏi là
người chỉ đâm một nhát và luôn được cộng đồng quý trọng. Và còn rất nhiều những
chi tiết tập tục vô lý đến hài hước trong tiểu thuyết “Pơthi” nhưng do khuôn khổ
của một bài báo mà chúng tôi chưa thể liệt kê ra hết được.
Độc giả tin tác giả Thu Loan là người yêu quý văn
hóa Tây Nguyên, ít nhất trong 380 trang của cuốn sách này. Nhưng cách yêu của
chị không đúng, hoặc chính xác hơn là chị đã không đủ khả năng để làm cho người
khác tin và yêu theo mình. Đó có thể xem là điều chưa thành công của cuốn sách
này. Sự viết không đúng nhiều sự việc, chi tiết ấy đương nhiên bắt nguồn từ sự
thiếu hiểu biết, chủ quan và nhất là viết liều về một lĩnh vực mà bản thân
không am tường. Thành ra, không những không làm được cái điều bản thân mình
mong muốn là giữ gìn những nét đẹp riêng có cho vùng đất ấy, mà dường như Thu
Loan còn góp phần làm cho nó méo mó thêm trong mắt người đọc, nhất là những người
chưa từng biết đến Tây Nguyên. Khép lại bài viết ngắn này, với tư cách là một
người có nhiều chục năm sống tại Tây Nguyên, chúng tôi thực sự bày tỏ sự thất vọng
về cuốn sách.
Nguồn: Văn Nghệ Công An