Trong
"Thi nhân Việt Nam", hai thi sỹ Xuân Diệu, Huy Cận được đánh giá rất
cao. Có thể coi, đó là hai "chủ tướng" của phong trào Thơ mới. Thơ
Xuân Diệu được tuyển chọn 15 bài. Thơ Huy Cận được tuyển chọn 11 bài. Thơ Thái
Can được tuyển chọn 5 bài. Riêng Quỳnh Dao chưa được chọn bài nào, mà chỉ được
nhắc đến trong hai trường hợp. Tuy vậy, thơ của Quỳnh Dao cũng rất được đề cao
trong bạn đọc. Theo ông Lê Tràng Kiều, nhà phê bình, đồng thời là chủ bút của
báo "Tiểu thuyết thứ năm", số ra ngày 11/4/1939, đã viết
"Chưa bao giờ các bạn yêu mến thơ được vừa lòng, được say sưa như bây giờ,
khi giở những trang thân yêu của tờ báo thân yêu này. Nó đã trình bày không
biết bao nhiêu tác phẩm có giá trị, những vần mơ màng của Quỳnh Dao, những vần
nhẹ nhàng của Anh Thơ, những vần diễm ảo của Thanh Tịnh, những vần thành thực
giản dị của Nguyễn Bính, những vần đầy mộng ảnh, đầy âm nhạc của Yến Lan và
những vần đặc biệt của Phạm Huy Thông, Lưu Trọng Lư…".
THI SĨ QUỲNH DAO: MỘT ĐỜI
NGẮN NGỦI MÀ SÔI ĐỘNG
VŨ TỪ TRANG
Đánh giá về vai trò, vị trí của phong trào Thơ mới (1930-1945), nhà phê
bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định "Thơ mới" đã mở ra "một
thời đại trong thi ca". Trong "Thi nhân Việt Nam", cuốn sách hệ
thống và nhận định từng tác giả của phong trào Thơ mới (do Hoài Thanh - Hoài
Chân thực hiện, xuất bản năm 1942), các tác giả có nhắc và trích thơ của nhiều
thi nhân, riêng đất Hà Tĩnh có bốn tác giả. Đó là: Thái Can, Xuân Diệu, Huy Cận
và Quỳnh Dao. Bốn thi sĩ này, có một số điểm gần nhau, đó là tuổi đời của họ
xêm xêm nhau. Thái Can sinh năm 1910, Xuân Diệu sinh năm 1916, Huy Cận sinh năm
1919, Quỳnh Dao sinh năm 1918. Họ đều có thiên hướng phát tiết tài năng văn
chương rất sớm, đều có những tác phẩm đầu tay khi còn rất trẻ.
- Tập
"Những nét đan thanh" của Thái Can (Nhà sách Ngân Sơn Tùng Thư,
Huế, xuất bản năm 1934), khi 24 tuổi.
- Tập "Thơ thơ" của
Xuân Diệu (Nhà xuất bản Đời Nay, Hà Nội, xuất bản năm 1938), khi 22 tuổi.
- Tập "Lửa thiêng" của
Huy Cận (Nhà xuất bản Đời Nay, Hà Nội, xuất bản năm 1940), khi 21 tuổi.
- Tập "Tơ trăng" của
Quỳnh Dao (Nhà in Asiatic, Hà Nội, xuất bản năm 1939), khi 21 tuổi. Đấy là chưa
kể trước đó, năm 1937, Quỳnh Dao đã có cuốn văn thơ "Tiếng chuông
chiều", in chung với Liêu Kỳ Lộc, khi ông 19 tuổi.
Điều đặc biệt, cả bốn thi sỹ này
đều có chí hướng tham gia cách mạng rất sớm. Tính lý tưởng sớm định hình trong
nhận thức và thái độ sống của họ. Năm 1945, nhà thơ Thái Can từng làm bác sỹ
quân y ở Quân khu bốn, từng tham gia chiến dịch Lê Lợi và bị thương. Nhà thơ
Xuân Diệu tham gia Việt Minh từ cuối năm 1943, đầu năm 1944. Nhà thơ Huy Cận
tham gia mặt trận Việt Minh bí mật từ cuối năm 1941. Năm 1945, Huy Cận đi dự
Quốc dân đại hội ở Tân Trào, được bầu vào Chính phủ lâm thời. Nhà thơ Quỳnh Dao
cũng tham gia hoạt động cách mạng ngay từ khi tuổi trẻ. Năm 1944-1945, từng bị
bắt giam ở Hỏa Lò (Hà Nội). Nhà thơ Quỳnh Dao trong diện hơn một trăm tù chính
trị tổ chức vượt ngục, từ 11 đến 16-3-1945, để tỏa về các địa phương chuẩn bị
Tổng khởi nghĩa.
Trong "Thi nhân Việt
Nam", hai thi sỹ Xuân Diệu, Huy Cận được đánh giá rất cao. Có thể coi, đó
là hai "chủ tướng" của phong trào Thơ mới. Thơ Xuân Diệu được tuyển
chọn 15 bài. Thơ Huy Cận được tuyển chọn 11 bài. Thơ Thái Can được tuyển chọn 5
bài. Riêng Quỳnh Dao chưa được chọn bài nào, mà chỉ được nhắc đến trong hai
trường hợp. Tuy vậy, thơ của Quỳnh Dao cũng rất được đề cao trong bạn đọc. Theo
ông Lê Tràng Kiều, nhà phê bình, đồng thời là chủ bút của báo "Tiểu thuyết
thứ năm", số ra ngày 11/4/1939, đã viết "Chưa bao giờ các bạn
yêu mến thơ được vừa lòng, được say sưa như bây giờ, khi giở những trang thân
yêu của tờ báo thân yêu này. Nó đã trình bày không biết bao nhiêu tác phẩm có
giá trị, những vần mơ màng của Quỳnh Dao, những vần nhẹ nhàng của Anh Thơ,
những vần diễm ảo của Thanh Tịnh, những vần thành thực giản dị của Nguyễn Bính,
những vần đầy mộng ảnh, đầy âm nhạc của Yến Lan và những vần đặc biệt của Phạm
Huy Thông, Lưu Trọng Lư…". Hãy thử đọc thơ của Quỳnh Dao:
Cành cây yếu yếu say như gió
Hôm ấy đương mê khúc nhạc chiều
Hôm ấy, lòng ta chừng ớn lạnh
Ơi nàng, ta lại thấy xiêu xiêu…
(Nhạc chiều, trong tập "Tơ
trăng", 1939)
Trong bài thơ "Bệnh
tưởng" viết tặng Hàn Mặc Tử, khi Quỳnh Dao 21 tuổi, đã viết:
Cây đứng bên bờ say rũ rượi
Một hai đòi xuống nước xanh xanh!
Đùi ngon ai nhúng trong hồ lộn?
Sóng liếm mê tơi gãy cả cành.
Đúng như nhận định của Lê Tràng
Kiều "Thơ Quỳnh Dao càng đọc càng lạ… Tâm hồn Quỳnh Dao là một tâm hồn đầy
mộng, khát khao yêu đương… Quỳnh Dao cố tìm tòi những cái khác lạ". Vẫn
đẫm chất lãng mạn, nhưng ở "Bài thơ Huế", những câu thơ của Quỳnh Dao
đã mở ra vẻ đẹp khoáng đãng và trong trẻo hơn:
Cầu trắng phau phau màu ánh sáng
Mây xanh lanh lảnh cánh chim chiều…
Cách dùng điệp từ trong câu thơ
còn phảng phất hơi hướng thơ cũ. Nhưng tiếp hai câu thơ sau, đã mở ra cảm xúc
mới mẻ:
Một hàng Tôn nữ cười trong nón
Sông mở lòng ra đón bóng yêu…
Hai câu thơ này, được Hoài
Thanh đánh giá cao và dẫn ra trong tiểu luận tổng quát phong trào Thơ mới, in
trong cuốn "Thi nhân Việt Nam".
Truyện thơ "Dưới cầu Giang
Tô" viết về chuyện tình đôi nam nữ Hàng Châu thời kháng chiến chống phát
xít Nhật. Quỳnh Dao đã gửi gắm bao lòng yêu nước và tinh thần dám hy sinh vì
đất nước. Mở đầu là cảnh non nước thanh bình "Cả trời vừa chớm sang thu/
Cành lê một nửa lá đu đưa vàng…". Tiếp đó, là cảnh chiến trận máu chảy đầu
rơi đầy tang tóc:
Từ đô thành tới cô thôn
Bom rơi đạn xé căm hờn ngút mây
Đồng khô xương trắng phơi đầy
Chiều sương nặng cánh diều bay tha mồi…
Để rồi:
…Khói đen trên Bích Dương lầu
tan hoang
Năm tên lính Nhật xếp hàng
Lia ngang loạt súng một tràng đạn bay
Tây Hồ sẫm nước đùn mây
Rưng rưng trăng vẽ nét mày hồng nhan…
Nếu giai đoạn đầu, thơ Quỳnh Dao
phảng phất ảnh hưởng của "trường thơ Loạn", xa rời đời thực, thì sau
đó, Quỳnh Dao đã tự chuyển thơ mình gần với cuộc sống hơn, mà truyện thơ
"Dưới cầu Giang Tô" đã minh chứng cho điều đó. Chặng đường thi ca của
Quỳnh Dao không dài, chỉ trong vòng 5 năm, nhưng đã có những sự đổi thay quan
niệm và cảm hứng sáng tác đáng kể. Ông từng là cộng tác viên tích cực và được
coi là một trong số các cây bút chủ lực của báo "Tiểu thuyết thứ
năm", một tờ báo có uy tín trên văn đàn khi đó. Tiếc là năm 1940, báo
"Tiểu thuyết thứ năm" phải đóng cửa.
Những cây bút chủ chốt của báo,
như Phạm Huy Thông, Phạm Huy Thái, Vũ Trọng Can… người mất, người sang nước
ngoài sinh sống. Quỳnh Dao từ quê ra Hà Nội, gây dựng và phục hồi lại tờ tạp
chí "Đông Tây", ông vừa là chủ nhiệm, vừa kiêm chủ bút. Ông đã tập
hợp được những cây bút tiêu biểu khi đó, như Mộng Tuyết, Yến Lan, Đỗ Huy Nhiệm,
Nguyễn Bính, Anh Thơ… Quỳnh Dao có quan hệ thân thiết với các văn sĩ, thi sĩ,
như Vũ Ngọc Phan, Hằng Phương, Ngân Giang, Vân Đài… Trong hồi ký của nhà
thơ Anh Thơ, bà có nhắc lại: Quỳnh Dao có đến yết kiến với các cụ thân phụ của
bà, để xin bà ra làm báo cùng. Ngày đó, Quỳnh Dao đã có chủ trương làm báo với
mục đích "Tập hợp lực lượng văn sĩ, thi sĩ có tài để đóng góp xây dựng cho
nền quốc văn Việt Nam ngày một phong phú và đổi mới…".
Mùa xuân 1942, tạp chí "Đông
Tây" ra được 7 số, lại phải đóng cửa, vì sự kiểm duyệt gắt gao và kinh tế
hạn hẹp. Quỳnh Dao đành trở lại quê nhà. Sống trong một gia đình giàu lòng yêu
nước, cụ Đinh Nho Huề (thân phụ Quỳnh Dao), từng đảm nhiệm việc đưa các ông Hà
Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Nguyễn Khoa Hiền sang Hương Cảng (Trung Quốc) hoạt
động cách mạng. Năm 1930, cụ Huề bị bắt, Quỳnh Dao từng phải lên đồn đem cơm
cho cha, nên lòng yêu nước càng thấm đẫm trong con người ông. Đến khi bị Nhật,
Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội (năm 1944-1945), mọi người mới biết Quỳnh
Dao hoạt động cách mạng lâu rồi.
Thì ra những chuyến đi về giữa
quê và Hà Nội, là con đường liên lạc cách mạng của người thi sĩ trẻ tuổi này.
Những ngày bị tù giam ở Hỏa Lò, Đinh Nho Diệm (tên thật của thi sĩ Quỳnh Dao)
luôn lấy thi ca là phương tiện đấu tranh cách mạng. Sau cuộc vượt ngục Hỏa Lò,
Quỳnh Dao cùng các chiến sỹ cách mạng khác tỏa về các địa phương để tham gia
Tổng khởi nghĩa.
Từ tháng 10/1946, Quỳnh Dao đưa
vợ con ra ở hẳn Hà Nội. Cũng từ đấy, quê hương biệt tin ông. Nào có biết đâu,
sau thời gian không lâu, trên đường công tác, ông đã hy sinh. Ông ngã xuống
trong trận mưa đạn xối xả của thực dân Pháp, khi tuổi đời còn quá trẻ, lẫn giữa
bao xác người vô danh.
Câu chuyện người em trai của
Quỳnh Dao là giáo sư Đinh Phạm Thái kể lại về những cuộc đi tìm kiếm phần mộ
người anh trai - thi sĩ Quỳnh Dao - thật cảm động. Năm 1999, Nhà xuất bản Thanh
Niên cho phát hành cuốn "Văn phẩm Quỳnh Dao" do nhà thơ Anh Chi sưu
tầm, biên soạn; giáo sư Đinh Phạm Thái (cũng là nhà thơ, hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam) trân trọng mang sách đến tặng nhà thơ Huy Cận.
Như một giao cảm bất ngờ, mở tập
sách, nhà thơ Huy Cận liền kể lại cuộc gặp gỡ tình cờ giữa ông và thi sĩ Quỳnh
Dao khi hai người cùng trên đường lên chiến khu Việt Bắc. Đấy là bến sông Lô,
ngày đầu năm 1947. Lần theo lời kể của nhà thơ Huy Cận, giáo sư Đinh Phạm Thái
liền đi tìm lại dấu vết người anh trai của mình. Qua bao cuộc gặp gỡ và bao
nhân chứng, nhưng thời gian đã xóa nhòa tất cả. Ông chỉ còn biết đem một nắm
đất nơi anh trai mình ngã xuống về lập ngôi mộ ở quê nhà. Chuyện riêng của thi
sĩ Quỳnh Dao không chỉ bùi ngùi vậy. Người vợ trẻ của ông đằng đẵng thủ tiết
thờ chồng nuôi con mấy chục năm trời. Người con trai duy nhất của ông bà, đảng
viên Đảng Cộng sản, theo con đường cách mạng của người cha, năm 1966 cũng đã hy
sinh tại chiến trường miền Nam, khi 25 tuổi.
Bình tĩnh đọc lại những tác phẩm
thơ của Quỳnh Dao để lại, chúng tôi càng thêm trân trọng những vần thơ tuổi trẻ
cháy bỏng khát khao, ngập tràn lãng mạn. Càng trân trọng hơn khi nhận ra dưới
vẻ đắm say khát khao và lãng mạn kia, là ý chí cách mạng sục sôi của một thi sĩ
dám dấn thân vì đất nước. Một người phát lộ tài năng thi ca rất sớm, lại có lý
tưởng cách mạng kiên cường, Quỳnh Dao xứng đáng là một thi sĩ tiêu biểu trong
phong trào Thơ mới.