Cởi trói, phong trào đổi mới tiểu thuyết và cách tân thơ nở rộ. Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Dương Hướng… nổi lên như những hiện tượng sáng giá, đẩy bao tên tuổi cũ với lối viết cũ vào hậu trường.
Tình trạng kéo dài đến đầu năm 1990, khi Hữu Thỉnh thay Nguyên Ngọc làm Tổng biên tập báo Văn nghệ, tờ báo của Hội Nhà văn bị giới lãnh đạo chính trị cho là đi chệch đường quá xa, cần định hướng lại. Phe bảo thủ dần dần thắng thế và lật ngược thế cờ. Các tác phẩm đổi mới bị phê phán, đỉnh điểm là tiểu thuyếtNỗi Buồn chiến tranh của Bảo Ninh – giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1992 bị mang ra mổ xẻ.
Khác biệt về quan điểm sáng tác giữa cánh nhà văn bảo thủ và các đồng nghiệp trẻ cấp tiến báo hiệu sự khởi đầu cho những phân rã sắp tới.
Tại Mỹ, tạp chí Hợp lưu do Khánh Trường chủ biên ra mắt vào tháng 10-1991, tiếp đến là tạp chí Thơ, do Khế Iêm sáng lập và chủ biên ra số đầu tiên vào năm 1994; ở Úc, tạp chí Việt do Phan Việt Thủy (chủ nhiệm) và Nguyễn Hưng Quốc (chủ bút) cho ấn hành vào đầu năm 1998, vân vân… trong đó tác giả quốc nội đóng góp bài vở đáng kể. Ở chiều ngược lại, đã thấy tác phẩm của nhà văn, nhà thơ hải ngoại xuất hiện rải rác trên báo chí trong nước.
Trong các tuyển tập thơ văn Việt Nam, văn thơ người Việt hải ngoại góp mặt ngày càng dày dặn hơn, vài tác phẩm của tác giả đang sống ở nước ngoài được in trong nước: Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Thơ đến từ đâu? của Nguyễn Đức Tùng… Sau đó, website của người Việt ở bên kia đại dương như:Tienve, Talawas, Damau… nhận được nhiều bàn tay đóng góp của văn thi hữu trong nước.
Sự thể tạo ảo tưởng về một thứ “hợp lưu” văn học trong ngoài. Thế nhưng các nhà quản lí văn học mà đầu óc luôn bị ám bởi sự “xâm lăng văn hóa” không nhìn nhận vấn đề đơn giản thế. Ảo tưởng chỉ dừng lại ở ảo tưởng.
Đó là lần thứ hai lực lượng sản xuất bị phân rã!
Khi tình yêu nước bị đánh động, nhà văn Việt Nam nhập cuộc, bằng thơ văn và cả xuống đường. Chưa trọn tháng, chuyên đề “Viết cho Hoàng Sa – Trường Sa” trên mạng Tienve.org thu hút cả trăm tác phẩm của các khuôn mặt đã hay chưa thành danh, tạo nên một phong trào sáng tác tự nguyện chưa từng có về một chủ đề liên quan trực tiếp đến sự kiện chính trị xã hội.
Phía ngoại vi thì vậy, trong khi đó các nhà văn chính thống hoàn toàn im lặng, một sự im lặng đầy ngờ vực. Mãi 40 tháng đi qua, sự kiện Trường Sa – Hoàng Sa tái diễn, khi hành động ở phía Trung Quốc ngang nhiên và bạo ngược hơn đẩy sự kiện vào thế bấp bênh mang chứa nhiều nguy cơ bùng nổ hơn; để khi được “phép”, các nhà văn chính thống mới ồ ạt làm thơ, văn yêu nước. Khác với cánh ngoại vi, nhà văn chính thống chỉ chống Trung Quốc từ xa, mà không dám nhìn vào thực tế đang diễn ra hàng ngày trên đường phố ở Sài Gòn, Hà Nội với những cuộc biểu tình, chống biểu tình, bắt bớ…
Một sự kiện – hai thời điểm. Hai tâm thế và tâm thức sáng tạo khác biệt ấy – qua một sự kiện chung kết nối bởi tình cảm chung – tưởng sẽ là cơ hội đưa văn nghệ sĩ Việt [trong nước và hải ngoại, chính thống và phi chính thống] xích lại gần nhau, thế mà nhìn ở bề sâu, nó như đang đào sâu thêm cái hố phân cách ngoại vi/ trung tâm của văn học Việt Nam đương đại.
Cạnh đó, không ít tác giả quan trọng ở miền Nam cũ tái xuất hiện, hay tác phẩm của họ được cho tái bản. Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Du Tử Lê… chiếm không gian không nhỏ trong các hiệu sách lớn. Đó là vài khuôn mặt “vô can” về chính trị tư tưởng, ngược lại các tác giả nhạy cảm như một Phạm Công Thiện chỉ có thể có mặt ở bộ phận thứ yếu qua hình hài thể loại thơ, còn các sáng tạo làm nên tên tuổi của ông cứ nằm trong bóng tối của cấm đoán. Võ Phiến thì chỉ được phép tái xuất qua bút danh cũ ít được biết đến: Tràng Thiên. Năm 2007, 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu được tái bản tạo cảm giác về một tín hiệu mở, nhưng rồi chúng bị thu hồi không lâu sau đó đã gây hụt hẫng lớn. Riêng các tên tuổi cộm cán như Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo… thì hoàn toàn vắng bóng.
Lần nữa ảo tưởng bị đổ vỡ.
Ngoài luồng, nhưng phong trào đã tạo ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt văn học trong nước. Ảnh hưởng vào tận trường học, mà thế giá của nó được đánh dấu qua luận án tiến sĩ của Trần Ngọc Hiếu nhấn mạnh đến “trò chơi” của nhóm Mở Miệng. Sự thể được đẩy lên đỉnh điểm với tên tuổi Nhã Thuyên mà luận văn “Vị trí kẻ bên lề…” được xem như chuyên luận đầu tiên về văn chương và sinh hoạt của các nhóm văn chương ngoài luồng này.
Đánh hơi nỗi nguy hiểm nhỡn tiền, tại Hội nghị Tam Đảo ngày 4-5 tháng 6-2014, Chu Giang gióng hồi chuông báo động đỏ bằng bài tham luận nảy lửa tố giác từ luận văn, người làm luận văn cho chí hội đồng chấm luận văn, mở màn cho trận đánh lớn sau đó. Phan Trọng Thưởng khẳng định đinh đóng đây là “luận văn nguy hiểm”, dẫn tới việc thu hồi bằng thạc sĩ của Nhã Thuyên, mất việc của giáo sư hướng dẫn là Nguyễn Thị Bình, chiếc ghế của nhiều vị có liên can cũng lung lay, tác động dây chuyền đến môi trường sinh hoạt học thuật của Đại học Việt Nam mà cửa mới he hé mở.
Đến đây, phân rã không còn thuộc phạm vi trong hay ngoài nước, Nam Bắc, trước hay sau 75, ngoại biên hay chính thống nữa, mà phân rã ngay trong trung tâm sinh hoạt văn học chính thống.
Đánh giá nguy cơ Văn đoàn gây nhiễu tinh thần hội viên, Hội Nhà văn Việt Nam lập tức tỏ thái độ. Cảnh báo đầu tiên được đưa ra: 9 nhà văn có tên trong Ban vận động được đề nghị gạch tên khỏi danh sách đại biểu dự Đại hội Hội Nhà văn sắp tới. Thế là các tên tuổi từng góp công lớn vào nền văn học Việt Nam hiện đại: Nguyên Ngọc, Nguyễn Huệ Chi, Ý Nhi, Dạ Ngân, Nguyễn Duy… bị đồng nghiệp loại bỏ thẳng thừng. Để ngày 11-5-2015, nhóm 20 nhà văn phản ứng bằng cách đưa lên mạng xã hội cái quyết định tuyên bố rút tên khỏi Hội Nhà văn Việt Nam.
Văn đoàn Độc lập tưởng nỗ lực hướng văn học về phía tự do và độc lập ở tương lai mở, ai dè bị chụp cho cái mũ chính trị với bao mắt nhìn soi mói, dị nghị.
Đây là phân rã mang tính tập thể rõ nét nhất.
Chuyện tưởng đóng khung giữa hai cá nhân nữ hội viên thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, không ngờ nó được nâng cấp lên hàng quốc gia, gây tốn bao nhiêu giấy mực của báo chí trong suốt cả tuần lễ Ngày Phụ nữ Việt Nam.
Hội Nhà văn Hà Nội đã xin lỗi độc giả, Phan Huyền Thư và Phan Ngọc Thường Đoan sau đó đã dàn hòa; phiền nỗi phát ngôn lạc điệu của các quan văn cùng cách nhập cuộc của hàng trăm đồng nghiệp đang chung mái nhà, chẳng những không mở sáng môi trường mà còn khiến nó rối mù thêm lên, mà dư hưởng của khói bụi gây ô nhiễm khí quyển văn chương Việt Nam chưa biết bao giờ tan biến.
Lê Thiếu Nhơn ra tối hậu thư với Phan Huyền Thư thì còn hiểu được, vì các comments bênh Thư đã xúc phạm cá nhân anh; riêng Vi Thùy Linh, sau khi đổ lên đầu đồng nghiệp cơ man hình dung từ: “là một trò trí trá của con buôn”, “lươn lẹo và trơ trẽn”, “quanh co bịp bợm”… còn đề nghị: “Đài truyền hình VN: không nên tiếp tục để Phan Huyền Thư làm chương trình “Giai điệu tự hào”, một chương trình tôn vinh những giá trị tốt đẹp của đất nước chúng ta, vì hình ảnh Phan Huyền Thư là một vết nhơ trong đời sống văn hóa”. Thật hết nước!
Có cần nhìn nhận mấy tan rã kia như là một tính hiệu tốt lành?