Góc nhìn của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn: “Người
Việt có câu: “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”. Xưa nay mọi người vẫn cho rằng câu ca dao này nói đến nhu cầu đùm bọc lẫn
nhau giữa những người nghèo khó. Thế nhưng đọc nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, thấy
ông gợi ra ý khác. Ông Trường cho câu này là lời kêu than của kẻ bị trị với người
thống trị. Sống trong một giàn đấy, tức cùng trên một địa bàn cư trú, trong một
xã hội, nhưng là khác giống, khác cấp độ, khác hẳn nhau về vị thế. Nên mới kêu
rằng hãy thương lấy chúng tôi với. Chứ giữa những người nghèo khó, làm gì có sự
khác giống mà phải kêu gọi vậy? Tôi cũng học theo cách đó, thử nhìn khác đi một
chút về truyện Tấm Cám”.
CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI VIỆT NAM QUA TRUYỆN TẤM CÁM
VƯƠNG TRÍ NHÀN
Có một đề tài mà người mình nói đi
nói lại với nhau, thế hệ nọ truyền lại cho thế hệ kia, và nay thì được đưa vào
sách vở để dạy dỗ nhau, đó là niềm tự hào một chiều, niềm tự hào này đôi khi lại
được tuyệt đối hóa tới mức quá đáng. Người Việt trong các truyện xưa chẳng hạn
thường được miêu tả như là chịu khó làm ăn và sống trong tình nghĩa gia đình
làng xóm. Và người ta lấy Tấm ra để làm ví dụ. Tấm tuy bé nhỏ nhưng là người trời
sinh chăm chỉ nết na, ở với bà lão thì quán xuyến việc nhà, được chọn làm hoàng
hậu rồi mà đến ngày giỗ bố vẫn về leo cây hái cau.
Tấm trái ngược hẳn với Cám và mẹ Cám.
Trong cuộc kiếm sống khó khăn, loại người như mẹ Cám
nhìn các đồng loại của mình như kẻ thù, thấy ai tìm được cái gì hơn mình, liền
tìm cách hãm hại.
Do cách kiếm sống kiểu đó, ở họ hình thành những phẩm
chất bẩm sinh đáng sợ. Cả trẻ loại mới lớn nứt mắt cho đến người lớn
đều ranh vặt và dối trá. Người ta chỉ có thể hiểu được điều này nếu nhớ lại
Cuội nhân vật trong một truyện cổ tích cùng tên. Truyện Cuội cũng thuộc
loại truyện lâu đời nhất như Tấm Cám. Trong tâm thức người Việt, Cuội tự
nhiên là thế, không ai chê cười cả.
Cám sẵn thói tàn ác. Bà dì ghẻ không muốn cho Tấm đi
hội nên đã trộn gạo vào thóc bắt Tấm nhặt. Một sự hành hạ tinh vi.
Khi Tấm đã thành hoàng hậu, về thăm nhà, bà lại
bảo Tấm trèo lên cây cau hái cau cúng bố, rồi lén chặt cau để Tấm ngã chết
tươi.
Từ bấy trở đi, bao nhiêu lần Tấm tìm cách tái
sinh là bấy nhiêu lần mẹ Cám xui con tận diệt dấu vết. Nào là làm thịt
chim, nào là đốt khung cửi. Cách con người trị nhau ở đây phải nói là rất dã
man. Nhưng nếu không tự dối lòng, ta phải công nhận nó miêu tả đúng cách quan hệ
với nhau của người phương Đông.
Có lần tôi đọc một tài liệu viết việc tòa án Tiệp điều tra
một vụ án mạng có liên quan tới người Việt. Khi thấy nạn nhân bị chọc thủng mắt,
họ kết luận hung thủ chắc chắn phải là một người Việt khác, không thể là một
người Tiệp được, vì hành vi quá man rợ, không thể có trong thế giới văn
minh. Gần đây đọc bài Những chuyện động trời về người Việt Nam ở Ba
Lan lại càng thấy rõ điều đó.
Tại sao lại có sự miêu tả kỹ càng về mẹ con
Cám như vậy?
Khi kể lại
cho nhau nghe Tấm Cám, người mình rất rạch ròi. Trong đầu óc ông cha ta --
và đến lứa chúng ta bây giờ cũng vậy, người Việt chỉ là Tấm thôi. Chứ còn Cám ấy
ư, là người nước nào ấy, chứ không phải người Việt. Cũng như ta hay hiểu ngẩm với
nhau, trong lịch sử những Lê Long Đĩnh, Trần Ích Tắc, thậm chí cả Gia Long, Tự
Đức, Trương Vĩnh Ký Hoàng Cao Khải… cũng không phải người Việt, khi nhận xét
cái hay cái dở của người Việt không ai tính đến họ.
Nay nếu từ bỏ cách xem xét phiến diện đó, xem các
nhân vật đều có ý nghĩa đại diện như nhau, thì phải nhận Tấm Cám đã
đi khá xa trong việc khái quát tính cách dân tộc.
Bây giờ để trở lại với nhân vật Tấm, tôi muốn bắt đầu
bằng một người Việt khác, người Việt số một trong tâm thức dân gian. Là nàng Kiều.
Trong một báo cáo của các nhà nghiên cứu nước
ngoài tại hội nghị VN học 1998, tôi thấy họ nói là Truyện Kiều cũng được
truyền sang Nhật, tức có một variant tiếng Nhật,
nghĩa là bản dịch thoát, dịch theo kiểu làm biến dạng chút ít như người Việt đã
làm.
Lạ một điều là nhân vật Kiều trong tiếng Nhật lại có nghị lực chứ không
chỉ than khóc khi gặp nghịch cảnh, rồi bằng lòng với sự đầu hàng, dễ dàng chấp
nhận số phận như Kiều ở Việt Nam.
Về phương
diện bất lực và lối phản ứng thụ động trước cuộc đời, Tấm rất gần Kiều. Động một
tí là giở trò than khóc để sau đó hoàn toàn trông mong vào sự cứu giúp của các
thế lực bên ngoài, tức cũng là trông vào vận may mà số phận run rủi cho gặp.
Toát lên từ cả câu chuyện ta thấy nếu cuối cùng Tấm có hạnh phúc thì phần lớn
là nhờ ở hiền gặp lành chứ không thể gọi nàng là người biết lo liệu
cho cuộc đời mình.
Cách nghĩ sống bằng cầu xin và ăn may không phải độc quyền của Tấm.
Trong khi diễn đạt những bước đường đời của
con người - cả trong sự lẩn tránh rủi ro lẫn truy cầu hạnh phúc, các mẩu
truyện dân gian còn cho thấy một nét tâm lý trên của Tấm rất phổ biến
trong người Việt.
Bằng chứng có thể lấy ngay trong Tấm Cám.
Hãy nhớ lại đoạn Tấm đánh rơi giày, vua cho gọi mọi người đến thử. Có phải là một
hai người nào đâu mà hầu như là tất cả đàn bà con gái đi hội đều chen nhau
đến để ướm chân vào giày, người nào người nấy tự nhủ nhỡ biết đâu chân
mình vừa giày thì sao. Ảo tưởng đến thế là cùng!
Trở lên đã nói về nét man rợ trong nhân vật mẹ
Cám. Oái oăm thay, bên cạnh chỗ khác mẹ con Cám, ở chỗ này Tấm rất giống họ. Tấm
không gây ra thù. Nhưng trong cách báo thù Tấm cũng man rợ. Nào là xui Cám nhảy
xuống hố để đổ nước sôi cho chết. Nào là chặt đầu Cám làm mắm gửi về cho
mẹ.
Theo chỗ tôi đọc được thì cả nhà văn Tô Hoài cũng không muốn chấp nhận cái chi
tiết ghê rợn này. Trong một văn bản Tấm Cám do chính ngòi bút Tô
Hoài viết, chi tiết cuối cùng bị tước bỏ. Riêng tôi thì tôi vẫn tin
chi tiết đó là cần vì nói đúng cái chất người của Tấm. Cái lý của tôi – ta
phải nhìn vào sự thống nhất trong tính cách nhân vật.
Cái may của truyện Tấm Cám còn lưu truyền
trong dân gian là ở đó nhiều câu đối thoại được ghi bằng lối nói có vần, khiến
cho người kể trong thời hiện đại không thể tự ý xoay cau chuyện theo ý
mình.
Cuộc đấu của Tấm và mẹ con Cám diễn ra qua nhiều
công đoạn. Khi Tấm trèo cau bị mẹ Cám chặt cau cho, Cám được đưa vào thay; Tấm
hóa thành chim vàng anh thì bị Cám nghe mẹ bắt làm thịt rồi đổ lông ra vườn. Chỗ
lông chim liền mọc lên hai cây xoan đào, vua rất thích ngồi dưới bóng cây hóng
mát. Cám mang chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ Cám bảo, cứ sai thợ chặt
cây làm khung cửi.
Nhưng khi khung cửi đóng xong, Cám ngồi vào dệt lúc
nào cũng nghe từ khung cửi cất lên những lời đe dọa: “Cót ca cót két. Lấy tranh
chồng chị. Chị khoét mắt ra”. Từ đây đến chỗ xui Cám ngồi dưới hố để dội nước
sôi cho Cám chết và làm mắm gửi mẹ Cám là chuyện hoàn toàn hợp lô gích.
Có bạn sẽ bảo phải làm thế mới trừ tiệt được cái ác
trong xã hội. Nhưng cũng là ảo tưởng mà thôi, cái ác trong xã hội Việt chưa bao
giờ cạn kiệt và như chúng ta thấy càng sang thời hiện đại, nó càng bùng phát. Với
tư cách hậu thế, những người đọc hiện đại chúng ta không thể tùy ý kể lại chuyện
xưa theo ý mình. Chẳng những thế nhìn thẳng vào hoàn cảnh sẽ thấy nay là
lúc những vấn đề của người xưa cũng đang ám ảnh chúng ta. Ví dụ không xa:
trường hợp cái ác trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nhiều người mới đầu rất
ghét về sau vẫn say mê văn ông – và đây có lẽ là trường hợp duy nhất
trong văn học sau 1945, một người viết văn vượt thoát khỏi sự thù ghét của dư
luận chính thống. Hóa ra thứ văn còn chia ra được thành chính thống và phi
chính thống chưa là gì cả. Chỉ có văn hay và văn không hay. Bài học của Nguyễn
Huy Thiệp là vậy.
Trở lại câu chuyện Tấm Cám đang bàn. Tôi ngờ rằng
nếu chỉ miêu tả cô Tấm hiền hậu thôi, thì nhân vật loại này sẽ chết yểu ngay từ
đầu. Sức sống của Tấm là ở chỗ trong đó còn tiềm ẩn những chi tiết mà đến nay
mới thấy rõ. Trong cuộc sống của người Việt, cái ác có mặt khắp nơi. Trước
khi bàn chuyện vượt qua cái ác thế nào, sự ghi nhận đầy đủ nó là cần thiết. “Khi
cái ác được viết ra, tức là có điều kiện để đẩy lùi nó. Mỗi lần nghệ thuật chiến
thắng là một lần cái thiện chiến thắng”. Đây vốn là một câu tôi đã viết trong bài “Khuôn
mặt nhàu nát—tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp, và đưa vào sách Những
kiếp hoa dại (1993) nay lại muốn dẫn ra ở đây mong được bạn đọc chấp nhận.
MẤY NÉT VỀ XÃ HỘI VIỆT TRONG TẤM CÁM
Con người đã vậy, bây giờ nói về xã hội.
Xã hội trong Tấm Cám có thể quy vào một
đặc điểm chính -- là rất hoang dã. Con người còn trong tình trạng tư duy
hái lượm, nhặt nhạnh ở thiên nhiên cái gì thì có cái đó. Trong lời dì ghẻ dặn Tấm
có câu văn vần “Chăn trâu thì chăn đồng xa—Chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu”.
Rõ là một xã hội trong đó con người sống thu mình trong lũy tre xanh, ở trong
làng thì tạm thời còn có kỷ cương, chứ ra khỏi làng tha hồ làm bậy. Và sự xui
nhau trốn tránh các loại lệ làng đã là phổ biến. Nên chú ý trong câu văn vần vừa
dẫn, chữ làng là dành để chỉ nhà chức trách, người có quyền lực. Họ cũng người
làng đấy. Có khi còn do dân chúng bầu ra. Nhưng họ không hề tổ chức cho dân
chúng làm ăn mà chỉ nhăm nhăm trừng phạt. Và phạt đến mức bắt hết cả trâu, lấy
đi cái kế sinh nhai của người ta thì quá kẻ cướp rồi còn gì.
Ước mơ tận cùng của dân đen trong cá làng xóm
là có triều chính có vua. Nhưng triều chính ấy ở cách làng mấy bước chân,
nên dù tha hồ tưởng tượng người ta cũng chỉ thấy nó chẳng khác làng quê.
Tôi không khỏi thích thú mỗi khi nhớ lại mấy câu văn vần:
Phơi áo chồng tao
Thì phơi bằng sào
Chớ phơi bờ rào
Rách áo chồng tao.
Đấy là khi Cám đã thay vào vị trí hoàng hậu của Tấm,
vào một ngày Cám giặt áo nhà vua thì bị Tấm trong thân xác chim vàng anh bay đến
mai mỉa vậy.
Vợ vua gì mà đoảng đến độ phơi cả áo vua lên hàng
rào? Cung điện gì mà áo vua ở mức lý tưởng nhất cũng chỉ phơi bằng sào? Đó thật
ra chỉ là nơi ở của thủ lĩnh làng xã, chúng ta gọi là hoàng cung cho sang trọng.
Các danh xưng của quốc gia là do đi mượn, các thứ cung điện, triều chính…
chỉ là một thứ ấu trùng. Trình độ tổ chức của xã hội ấy quá thấp.
Có thể tin được điều này nếu đọc lại các bộ sử cổ mà
trước tiên là bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Nhờ học được người Trung Hoa nên
ông cha ta có thể tạo ra một sinh hoạt triều chính nối tiếp, nhưng sinh
hoạt đó rất thô sơ. Đọc sử đoạn ghi về thời Trần có khi thấy mấy vị
hoàng tử tranh nhau cả cái áo, ông nọ bảo ông kia rằng ngôi vua tao còn nhường
cho mày, sao cái áo lại còn đòi. Cũng đời Trần có chuyện vua ra ngoài thành
chơi bị cướp mất cả ấn tín. Hoặc thời Lý đâu có lệnh là các quan vào chầu không
được nhổ quết trầu ra cung đình.
Khi viết những dòng này, tôi hiện không giữ bên mình
những ghi chép từ ĐVSKTT, nên chỉ ang áng nhớ như trên, dịp
khác sẽ dẫn số trang số dòng chính xác.
Nhưng qua mạng tôi có đọc được và sao chép lại một văn bản quý kể về Lê Hoàn,
xin “dán” lại một đoạn; mọi ý trong đoạn văn được giữ nguyên, tôi chỉ làm giãn
các ý ra bằng cách liên tục xuống dòng, giúp các bạn dễ đọc.
Đây là hình ảnh Lê Hoàn dưới con mắt viên sứ nhà Tống:
“Cuối mùa thu năm ngoái, đến cõi Giao Châu, Lê Hoàn
sai Nha nội Đô chỉ huy sứ là bọn Đinh Thừa Chính đem 9 chiếc thuyền và 300 quân
đến Thái bình quán để đón.
Từ cửa biển đi vào biển lớn, lặn lội sóng gió,
trải nhiều sự nguy hiểm. Quá nửa tháng đến sông Bạch Đằng, đi tắt theo một
nhánh hải lưu, cứ theo nước thủy triều mà đi.
Phàm những bến đỗ ngụ lại có 3 gian nhà
tranh, có vẻ mới được sửa sang lại, gọi là ‘quán dịch’.
Đi đến Trường Châu, gần bản quốc, Lê Hoàn phô
trương khoác lác, dốc hết chiến thuyền ra, gọi là ‘diễu quân’.
Từ đấy rong thuyền suốt đêm đi đến bờ biển, cách
Giao Châu độ 15 dặm có một trạm nghỉ chân 5 gian lợp tranh đề ‘Mao kính dịch’.
Cách thành 100 dặm khua gia súc của dân ra gọi là ‘quan ngưu’, số gia súc chưa
đến một ngàn, nhưng lại nói khoe là 10 vạn. Lại đốc suất dân ở chung với quân
lính, mặc áo tạp sắc, chèo thuyền đánh trống reo hò. Núi sát bên thành hư
trương cờ trắng, cho đó là bày thế trận.
Được một lát đoàn hộ vệ rước Lê Hoàn đến, mở lễ
giao nghênh .
Lê Hoàn ghìm ngựa nghiêng người, hỏi thăm Hoàng đế
xong, cầm cương đi cùng hàng, lúc ấy lấy trầu cau ra mời, ngồi trên mình ngựa
mà ăn, đấy là phong tục mang hậu ý đãi khách.
Trong thành không có nhà dân, chỉ có vài trăm khu nhà
tre lợp gianh, gọi là quân doanh. Phủ thự trũng hẹp, trên cửa phủ đề ‘Minh đức
môn’.
Hoàn xấu người chột mắt, tự nói rằng năm gần đây vừa
mới tiếp chiến với man khấu, rơi từ trên ngựa xuống nên chân bị thương, nhận
chiếu nhưng không lạy.
Sau khi nhận dụ chỉ thì rải chiếu mở yến tiệc.
Lại ra sát mép nước, diễn trò mua vui cho khách.
Lê Hoàn đi chân đất cầm gậy tre lội nước xâm cá. Mỗi
khi trúng một con thì tả hữu hai bên đều hò reo nhảy múa.
Phàm khi yến hội, những người vào dự tiệc đều phải cởi
đai áo, mũ mão.
Hoàn thường mặc áo hoa văn sặc sỡ hoặc áo màu đỏ, mũ
thì lấy trân châu làm trang sức, có khi tự mình hát ‘Khuyến tửu ca’ (khúc ca mời
rượu), không một ai có thể hiểu lời của bài hát.
Thường sai bọn hơn chục người khiêng một con rắn dài
vài trượng đến tặng sứ quán, còn nói : ‘Nếu có thể ăn được thì sẽ làm thịt nó
bày cỗ dâng lên’.
Lại đóng cũi hai con hổ đem đến tặng, nói để
tùy ý quan sát. [Chúng thần] đều từ chối không nhận.
Quân lính có 3000 tên, tất cả đều thích trên trán
dòng chữ ‘thiên tử quân’, lương thực thì có lúa đủ dùng hàng ngày, cho vào giã
rồi mới ăn. Binh khí thì có cung nỏ, khiên gỗ, thoa thương, trúc thương, [binh
khí] rất yếu không thể dùng được.
Hoàn tính tình thô lược tàn nhẫn, kẻ thân cận đều là
bọn tiểu nhân.
Cho ở bên cạnh một bọn 50 tên hoạn quan tâm phúc.
Thích uống rượu nô đùa, lấy chỉ lệnh làm vui, phàm bọn
thuộc quan nào giỏi việc thì cất nhắc thân cận, bọn thuộc hạ xung quanh nếu có
lỗi nhỏ cũng giết ngay, hoặc nếu không cũng cho đánh roi từ 100 đến 200 cái.
Đám phụ tá nếu có chút gì không vừa ý cũng sẽ
phạt trượng từ 30 đến 50 cái, giáng truất làm môn lại, khi nào hết giận lại gọi
về cho khôi phục chức cũ.
Có một cái tháp gỗ, chế tác thô lậu chất phác, Hoàn
mời [bọn chúng thần] lên du lãm . Đất nơi ấy không có hàn khí, tháng
11 còn mặc áo kép phất quạt“.
Đọc đoạn văn này tôi càng thấy
tin ở cách hiểu của mình về xã hội người Việt trong Tấm Cám như đã
trình bày ở trên.
Có bạn sẽ hỏi, đây là do
người Trung quốc viết làm sao tin được. Trời ơi, làm sao mà người ta có thể bịa
ra những chi tiết cụ thể như trên đã đọc!
Những người dịch văn bản đó ra tiếng Việt đều là người
có thiện chí.
Tài liệu này tôi chép được từ trang web của nhà nghiên cứu
Hán học Quách Hiền, ở địa chỉ
quachhien.blogspot.com/2010_09_01_archive.html
Nhưng trước đó tôi đã đọc được
nó trong loạt bài khảo về sử của Nguyễn Văn Tố in trên tạp chí Tri tân ra
trước 1945.
Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố là một trong bốn nhân vật lừng lẫy một thời Quỳnh
Vĩnh Tố Tốn. Là nhân viên của Viện Viẽn đông bác cổ, ông đã làm cái công việc mở
lại nhiều trang lưu trữ. Bản trên Tri tân sau này đã được in lại
trong cuốn sách Đại Nam dật sử (sử ta so với sử Tàu). Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam xuất bản, H. 1997, nhưng do cả cuốn có lẽ không phải vị các
nhà sử học đương thời nên không ai nhắc tới nó cả, và hình như bạn Quách Hiền
cũng không biết (?).
Tấm Cám vốn quá quen thuộc với mỗi người Việt
bình thường. Điều cuối cùng tôi muốn nhấn mạnh là cho đến thế kỷ XX,
chúng ta chỉ dừng lại ở cách nhìn nhận một chiều về thiên truyện thuộc dạng
tối cổ này, và cứ đinh ninh rằng người Việt hiện lên trong đó là rất đáng tự
hào, xã hội trong đó là muôn ngàn tốt đẹp, không thấy nó còn chứa chất rất nhiều
nội dung mà chỉ trong hoàn cảnh của xã hội hiện đại ta mới có thể soi dọi khám
phá.