Đào Tấn làm quan triều Nguyễn dưới thời các vua Tự Đức,
Đồng Khánh, Thành Thái. Ông kinh qua các chức như Hiệu thư chuyên soạn tuồng
trong cung, Tri phủ Quảng Trạch, Phủ doãn Thừa Thiên, Tổng đốc Nam Ngãi, Tổng đốc
An Tĩnh, Thượng thư các bộ Công, Hình, Binh. Chí bình sinh của ông chỉ mong sao
dân an, đất nước thái bình. Vậy nên ông tự thẹn, tự hổ khi phận mình làm quan
trong thời loạn lạc, đất nước lầm than dưới gót giày thực dân. "Thẹn lắm
nghe ai gọi cựu thần/ So với nàng ta thẹn xiết bao/ Ngồi già trên sông Hương/
Thầm hổ với vầng trăng...". Đào Tấn hiểu sự mục ruỗng của chế độ phong kiến
đương thời, cái thời mà vua không ra vua, quan không ra quan. Ông trở thành một
kẻ sĩ "ở ẩn tại triều", như đóa mai giữa chốn bụi lầm.
Kỷ niệm 170 năm ngày sinh danh nhân Đào Tấn
(1845-2015)
Thẹn
lắm nghe ai gọi cựu thần…
QUỲNH NGA
"Lao xao sóng vỗ ngọn tùng/ Gian nan là nợ anh
hùng phải vay". Câu thơ trên đã trở nên quá quen thuộc đối với những người
yêu mến Đào Tấn - Hậu Tổ của tuồng. Cuộc đời ông cũng là chuỗi ngày gian nan của
một vị quan thanh liêm, những trăn trở vì dân vì nước gửi gắm trong câu hát, vở
tuồng. Tròn 170 năm ngày sinh của ông (1845 -2015), bao thế hệ học trò hậu sinh
lại quy tụ về để tưởng nhớ người nghệ sĩ tài hoa, lưu truyền nghĩa khí muôn đời.
Mộ Đào Tấn nằm trên núi Hoàng Mai, xã Phước Nghĩa
nhìn ra bốn phía đất trời Tuy Phước bao la. Ở đó, quanh năm chim rừng véo von
ru cho người giấc nghìn thu. Núi mang tên loài hoa mai mà ông hằng mến phục, cả
đời đeo đuổi, giữ khí tiết như đóa mai thơm ngát giữa trời thanh sạch mà lấy hiệu
là Mộng Mai.
Đào Tấn làm quan triều Nguyễn dưới thời các vua Tự Đức,
Đồng Khánh, Thành Thái. Ông kinh qua các chức như Hiệu thư chuyên soạn tuồng
trong cung, Tri phủ Quảng Trạch, Phủ doãn Thừa Thiên, Tổng đốc Nam Ngãi, Tổng đốc
An Tĩnh, Thượng thư các bộ Công, Hình, Binh. Chí bình sinh của ông chỉ mong sao
dân an, đất nước thái bình. Vậy nên ông tự thẹn, tự hổ khi phận mình làm quan
trong thời loạn lạc, đất nước lầm than dưới gót giày thực dân. "Thẹn lắm
nghe ai gọi cựu thần/ So với nàng ta thẹn xiết bao/ Ngồi già trên sông Hương/
Thầm hổ với vầng trăng...".
Đào Tấn hiểu sự mục ruỗng của chế độ phong kiến
đương thời, cái thời mà vua không ra vua, quan không ra quan. Ông trở thành một
kẻ sĩ "ở ẩn tại triều", như đóa mai giữa chốn bụi lầm. Đời làm quan của
ông được Gosselin, một võ quan cao cấp người Pháp cùng thời ghi nhận rằng, sau
30 năm phục vụ triều đình, Đào Tấn vẫn "tay trắng thanh bần". Bao
nhiêu của nả, phú quý, nhẫn nhục ở chốn triều cung, ông dồn vào niềm đam
mê khôn cùng: nghệ thuật tuồng. Sinh ra ở mảnh đất Bình Định, nơi "đất võ
trời văn", thiếu thời ông sớm bộc lộ tư chất về văn thơ, tuồng. Đào Tấn
theo học thầy Tú Nhơn Ân- tác giả của những bộ tuồng nổi tiếng như "Ngũ hổ",
"Hồ Nguyệt Cô hóa cáo", "Liễu đố"...
Có lẽ sống trong thời loạn mà tuồng Đào Tấn phá bỏ mọi
khuôn mẫu trước đó. GS Hoàng Chương, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và
phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam phân tích: "Đào Tấn là người đầu tiên
phá vỡ đề tài "Quân quốc", một đề tài duy nhất của tuồng cổ, phá vỡ cả
nguyên tắc kết cấu kịch bản truyền thống là "có hậu", tuồng tích theo
kiểu chương hồi "vua băng nịnh tiếm, tử chiến phò vua, tướng xua quân
lùng, giết nịnh định đô, tôn vương tước vị".
Với tuồng cổ, nhân vật chính là những con người nguyện
chết vì chúa, hành động theo "tam cương, ngũ thường", "quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung". Riêng kết cấu kịch bản tuồng Đào Tấn
không có hậu mà có những cuộc ra đi tìm chân lý của các nhân vật anh hùng nghĩa
sĩ, những nạn nhân của triều đình phong kiến". Chữ "trung" mù
quáng của người quân tử được Đào Tấn đặt lại, đó là "Chim khôn chọn cành
cao mà đậu/ Người khôn chọn chúa sáng mà thờ".
Đào Tấn dùng tuồng như một vũ khí lên án chế độ
phong kiến, lên án bọn vua quan bù nhìn, sa đọa thân Pháp, cổ vũ phong trào cứu
nước, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng nhân dân. Điều này thể hiện rõ trong các vở
như "Cổ thành", "Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan", "Diễn
Võ đình", "Trầm hương các"... Tuồng của ông đứng về nhân
dân, ca ngợi lòng yêu nước, đề cao chính nghĩa. Những nhân vật chính diện như
Tiết Cương, Lan Anh, Triệu Khánh Sanh, Hoàng Phi Hổ... có người bước ra từ giới
quý tộc, có người là phận dân đen nhưng họ là bậc anh hùng, liệt nữ xả thân vì
lẽ phải, đạo hiếu.
NSND Lê Tiến Thọ, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt
Nam nhận xét: "Bi kịch tuồng cổ được ông xử lý mềm mại tinh tế, đan xen yếu
tố hài kịch, có tính tư tưởng, đẩy hiện thực đời sống gần gũi người xem. Ông
đưa nhiều điệu hát Lý, hát Nam, lý Thượng vào tuồng, thậm chí không ngại đưa cả
lớp sinh con (sinh hoạt cấm kỵ của giới phong kiến)". Có lẽ lớp Lan Anh
sinh con giữa rừng sâu núi thẳm trong tuồng "Hộ sanh đàn" là lớp
thiêng liêng và cảm động nhất nhưng vô cùng gần gũi mà Đào Tấn đã dày công sáng
tạo. Người phụ nữ vốn không được coi trọng trong thời phong kiến lại luôn được
đề cao trong tuồng Đào Tấn, đó là Lan Anh sắt son với chồng, Hồ Nô trung hậu,
Tú Hà tiết nghĩa...
Gần gũi đời thường, đứng về phía nhân dân lầm than
nên bút pháp của tuồng Đào Tấn là bút pháp hiện thực cả trong nội dung lẫn hình
thức thể hiện. Ông là người đầu tiên đưa các đào kép diễn trên bè chuối trôi
trên dòng kênh để tả cảnh thủy chiến, dàn dựng cho các diễn viên biểu diễn trên
đường làng Vinh Thạnh để nhân dân hiểu rõ cảnh hát múa. Nội dung câu chuyện tuy
lấy điển tích của Trung Quốc nhưng lại là cách "trông người mà ngẫm đến
ta", mang đậm hiện thực Việt Nam. Vua Trụ trong "Trầm hương các"
là chân dung phác họa của vua Tự Đức, Đồng Khánh; Tiết Bất Nghĩa ("Hộ sanh
đàn") và Tạ Kim Hùng ("Khuê các anh hùng") khiến người ta liên
tưởng tới tên Việt gian phản bội Nguyễn Thân...
Nói không ngoa, đến thời Đào Tấn, nghệ thuật tuồng từ
nghiệp dư đã được chuyên nghiệp hóa và lên đến đỉnh cao chói lọi với nhiều đột
phá. Ông là người đầu tiên đưa nhân vật người thiểu số (Hồ Nô trong "Hộ
sanh đàn") lẫn võ thuật dân tộc vào tuồng. Ông đưa tuồng dân gian vào cung
đình rồi từ cung đình tỏa ra dân gian nên tác phẩm của ông thấm đẫm chất bác học
nhưng cũng rất quần chúng. "Cái tôi" tự sự của nhân vật làm tăng thêm
nét bi tráng, trữ tình, làm giàu cho ngôn ngữ nghệ thuật tuồng.
Kho tàng Đào Tấn để lại cho đời rất đồ sộ với hơn 40
vở tuồng và cả ngàn áng thơ, từ, câu đối... Ông là người đầu tiên thành lập các
đội tuồng chuyên nghiệp được hưởng lương và cấp bậc, đồng thời lập hai gánh hát
kiêm trường đào tạo nghệ thuật tuồng mang tên "Học bộ đình" tại thành
Vinh và làng Vinh Thạnh quê hương mình. Văn tuồng Đào Tấn được vua Tự Đức ca ngợi
là "Bút pháp như thần". Ở đó có sự hòa quyện của nhạc, họa, thi ca.
Qua đó mà như lời cảm khái của chính tác giả, cho đất nước biến nguy "Nhạn
lẻ ngang trời, mấy bít lối/ Đèn côi trăng mãi rọi bên thành". (Lời Trương
Phi trong vở "Cổ thành").
NSƯT Quang Hạnh từng thọ giáo nhiều nghệ sĩ nổi tiếng
vốn là học trò của Đào Tấn, trong đó có thầy Cửu Vị. Ông kể rằng ngày ấy, mỗi lần
tập tuồng, thầy Cửu Vị thường chỉnh cho ông từng li từng tý về cách hát lẫn vũ
đạo, làm sao cho đúng phong cách cụ Đào. Bởi tuồng Đào Tấn đã tạo nên những nét
chuẩn mực, hệ thống và bài bản hóa về cách hát, trang phục, tạo hình, vũ đạo,
võ thuật... để truyền dạy cho thế hệ mai sau. Sinh thời, cụ Đào không chỉ coi
trọng yếu tố ngôn từ mà còn rất chú ý đến yếu tố hát, múa, diễn và cả hóa
trang, phục sức.
Để làm cho tác phẩm sân khấu đạt đến độ hoàn thiện
nhất, Đào Tấn đặc biệt chú ý đến người diễn viên vì ông coi một tác phẩm dù hay
đến mấy nhưng diễn viên tài năng kém thì coi như bỏ. Trong "Hý trường tùy
bút", ông viết: "Tôi ở "Học bộ đình", ngoài việc bảo kép
hát thuộc làu lời tuồng còn bảo họ diễn thử. Đến chỗ quan trọng, tôi bảo dừng lại,
giảng giải ý tứ sâu xa của đoạn tuồng đó, nên hát thế nào, nên dùng cử chỉ gì để
biểu hiện". Vậy nên mới xuất hiện giai thoại rằng có người học trò hát
hay, tướng đẹp rất hợp với vai Tiết Cương nhưng không biết võ để múa rìu. Dù
Đào Tấn rất ưng học trò này nhưng vẫn bảo anh về quê học võ đến ba, bốn tháng
sau cho nhuần nhuyễn ông mới cho trở lại trường hát tuồng.
Tác phẩm Đào Tấn không chỉ là áng văn thơ đẹp, hình
tượng sân khấu tuyệt tác mà nó còn chứa đựng những bài học nhân văn, khí tiết của
đạo làm người. Con người và sự nghiệp của Đào Tấn là tấm gương sáng về nghĩa
khí của người quân tử để thế hệ hôm nay noi theo. Vậy nên có ý kiến đề xuất
không chỉ đưa tác phẩm của Đào Tấn vào các trường đại học mà còn nên giảng dạy
cho các em học sinh phổ thông. Riêng Thạc sĩ Nguyễn Thị Việt Nga (Đại học Văn
hóa TP Hồ Chí Minh) cho rằng, trong bối cảnh quốc tế hóa hiện nay, để bảo tồn
và quảng bá giá trị quý báu của tuồng Đào Tấn ra thế giới thì rất cần việc chuyển
ngữ các tác phẩm của ông sang tiếng Anh. Đặc biệt, vấn đề này càng cấp bách khi
nước ta tiến hành hoàn thiện hồ sơ trình lên UNESCO đề nghị công nhận Đào Tấn
là danh nhân văn hóa thế giới.
Đầu tháng 9-2015, UBND tỉnh Bình Định khởi công xây
dựng Đền thờ Đào Tấn tại làng Vinh Thạnh nhân dịp 170 năm ngày sinh của
ông. Đây sẽ là nơi để du khách và những người yêu mến tuồng đến tham quan, tưởng
nhớ đến Hậu Tổ tuồng, ông quan nghệ sĩ có những đóng góp to lớn cho nền văn hóa
nghệ thuật nước nhà.
Nguồn: Văn Nghệ Công An