
Đời sống văn học xem ra ngày càng phức tạp, hỗn độn,
với sự “lên ngôi” của sự phù phiếm kèm theo là các “giá trị giả” nên nhiều khi
tôi chán ngán, chẳng thích viết phê bình nữa. Về xu hướng thì nhiều người thường
thích khen chứ không thích chê. Chắc vì thế trong một số trường hợp, người ta
viết như khen lấy được, rồi sử dụng vài lý thuyết nhặt nhạnh thiếu hoàn chỉnh từ
nước ngoài để bảo lãnh cho lời khen. Khi ông tây đã bảo thế này, bà tây đã nói
thế kia thì chẳng nhẽ còn dám phê phán? Mấy năm trước, thấy một số tác giả quảng
bá chủ nghĩa hậu thực dân là “hợp xu thế, hợp quy luật… vấn đề mới mẻ và có ý
nghĩa, có tính khả thi, hứa hẹn cho những suy tư lý thuyết cũng như những thực
hành phê bình của người nghiên cứu”, tôi tìm hiểu xem sao, thì phát hiện người
ta làm rùm beng một lý thuyết mà người ta chưa rành rẽ. Cực chẳng đã tôi phải
viết một tiểu luận đề cập bản chất vấn đề và đề nghị nên thận trọng. Công bố
hơn nửa năm rồi, chưa thấy ai phản bác, rồi cũng ít thấy ai nhắc đến chủ nghĩa
hậu thực dân! Quả là văn đàn đang cần những “cây búa” gõ lên bàn phím để có những
bài phê bình nghiêm khắc, hữu lý, thuyết phục.
Nguyễn
Hòa: Việc của nhà văn trước hết là sáng tác
HỒNG THANH QUANG
Ở
những công việc khác nhau, với những trải nghiệm khác nhau nhưng nhà nghiên cứu
văn hóa Nguyễn Hòa cũng như tôi đã đi qua một hành trình đời sống và nghề nghiệp
có nhiều nét tương đồng. Chúng tôi đều xuất thân từ lính ở những đơn vị chiến đấu
và bằng đam mê và nỗ lực cá nhân cộng với sự ủng hộ rất nhiệt thành của đồng đội
nên cuối cùng đã được làm công việc mà mình ưa thích như hiện nay. Trước khi
chuyển sang công tác tại Báo Nhân dân, anh Nguyễn Hòa từng là đại tá, làm việc
tại tạp chí Văn nghệ Quân đội… Và câu chuyện hôm nay giữa chúng tôi là bàn luận
của hai người cựu chiến binh, với góc nhìn đã được đào luyện trong màu xanh áo
lính mà có lẽ tới cuối đời chúng tôi vẫn mang theo…
@: Trước
khi chuyển công tác về tạp chí Văn nghệ Quân đội, anh hình dung về “ngôi đền
văn học” số 4 Lý Nam Đế và những tên tuổi lớn của “Nhà số 4” như thế nào? Những
ai đã từng là người tạo cho anh có thêm niềm hứng khởi để đi sâu hơn vào công
việc văn học của mình?
Nguyễn
Hoà: Đầu
năm 1980, đang đóng quân trên biên giới phía Bắc, tôi được về qua nhà. Xuống ô
tô ở Bến Nứa, tôi đeo ba lô “lộn ngược” định tới Hàng Than đi tàu điện ra Bờ Hồ.
Tạt vào quán nước, thấy bán loại thuốc lá đen đen, bé tý lại dài ngoằng. Tôi hỏi,
thì chủ quán bảo: “Thuốc Mo”. Tôi mua một điếu, vừa đi vừa phì phèo. Ai dè thuốc
nặng, tôi say đứ đừ, choáng váng, mắt thấy hoa cà hoa cải. Bước thấp bước cao,
tôi cũng tới được vườn hoa Hàng Đậu, tìm một gốc xà cừ ngồi dựa một lát cho đỡ
say, rồi theo phố Lý Nam Đế ra Cửa Nam. Đi được một đoạn, thấy ngôi nhà rất đẹp
với hai cây hoa đại khá to, cạnh cổng gắn tấm biển ghi dòng chữ Tạp chí
Văn nghệ Quân đội. Thì ra đó là trụ sở của cái Tạp chí tháng nào tôi cũng
đọc! Ngó mãi vào ngôi nhà vẻ thâm nghiêm ấy cũng ngại, nên tôi vừa đi vừa ngoái
cổ nhìn. Hồi đó tôi chưa nghĩ sẽ làm văn chương, nên ngoái cổ vì ngưỡng mộ chứ
không phải vì ao ước. Bởi tôi biết trong ngôi nhà ấy có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải, Xuân Thiều, Hồ Phương, Dũng Hà và nhiều nhà văn mà tôi đã được đọc tác phẩm.
Thời còn “trấn ải lưu đồn” trên Lạng Sơn, tôi đọc những cuốn Văn nghệ Quân
đội vàng khè bụi đất, sờn hết mép. Có nơi bộ đội còn phải dỡ “gáy” cuốn Tạp
chí, chia thành mấy phần nhỏ, để mọi người cùng đọc...
Năm 1987 tôi bắt đầu viết phê bình, cũng phải hơn 10
năm sau tôi mới được vềVăn nghệ Quân đội. Đọc sách rồi thích nhận xét các
cuốn sách nên tôi viết phê bình, chứ cũng không hẳn vì ai đó gợi cho tôi niềm hứng
khởi.
@ Trong chuyên
môn của anh, anh nghĩ thế nào về cách viết phê bình văn học của các anh Nhị Ca,
Ngô Thảo, Vương Trí Nhàn, Hồng Diệu, Lê Thành Nghị, Ngô Vĩnh Bình,…?
Nguyễn
Hòa:
Đối với tôi, đó là thế hệ của các nhà phê bình đàn anh. Tuy nhiên khi về Văn
nghệ Quân đội, tôi đã có một thời gian sống, làm việc cùng các anh Hồng Diệu,
Lê Thành Nghị, Ngô Vĩnh Bình. Thú thực tôi rất ngại nhận xét về đàn anh, mà ngại
lại không phải là tính cách của tôi, nên vẫn mạo muội chấm phá đôi nét. Cùng là
nhà phê bình, nhưng các anh ấy mỗi người một vẻ. Anh Hồng Diệu thì thích bàn về
thơ chữ Hán, anh Ngô Vĩnh Bình nghiêng về làm tư liệu văn học. Anh Lê Thành Nghị
có xu hướng viết phê bình dựa trên lý thuyết, anh có sự tinh tế riêng, chắc là
vì thế anh đã làm thơ và thơ khá hay. Anh Vương Trí Nhàn thi thoảng viết về một
vấn đề văn hóa, văn học nào đó, nhưng lâu nay xu hướng nổi trội của anh là dò
tìm, khái quát thói xấu của con người và văn hóa dân tộc, rồi từ tầm cao của một
nhà nghiên cứu (không biết là cao thật hay kiễng chân?) anh ỉ eo về các thói xấu
đó, rồi đề nghị phải làm thế này, phải làm thế kia. Đọc anh, tôi có cảm giác ở
nước Nam hiện tại chỉ còn mỗi một người sáng suốt, tâm huyết, trong như
pha-lê?! Anh Ngô Thảo thì tôi không dám nhận xét, vì đã lâu rồi, anh ấy hầu như
không viết phê bình.
@ Tôi thấy anh
Ngô Thảo vẫn xuất hiện trên báo chí đấy chứ?
Nguyễn
Hòa:
Anh lại làm tôi phải nói ra điều không dám nói. Đúng là thi thoảng anh Ngô Thảo
vẫn xuất hiện trên báo chí song theo tôi, nếu ý kiến của anh có sức nặng (như một
giả thuyết) thì chủ yếu là dựa trên vốn liếng anh ấy tích lũy trong quá khứ,
còn thì lâu rồi, khả năng khám phá, phát hiện, phân tích của anh cũng hạn chế.
@ Trở thành một
thành viên bình đẳng ở “Nhà số 4”, anh cảm nhận thế nào về các đồng nghiệp
chung một đơn vị của mình?
Nguyễn
Hòa:
Với tôi, được là thành viên của “Nhà số 4” là điều may mắn. Khi bắt đầu viết
phê bình, tôi vẫn không dám mơ được làm việc cùng các anh Nam Hà, Nguyễn Trí
Huân, Chu Lai, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng, Anh Ngọc, Hồng Diệu,
Lê Thành Nghị, Trần Đăng Khoa (tôi xếp Trần Đăng Khoa ở đây vì hồi đó anh biên
chế ở Ban Lý luận, phê bình cùng tôi!). Tôi cố gắng tìm hiểu xem nếp cũ - chữ của
Nguyễn Toan Ánh, ở Văn nghệ Quân đội là gì để thích nghi. Nhưng rất khó, có lẽ
do lúc đó tôi đã ngoài 40 tuổi, tâm tính, thói quen cơ bản đã ổn định. Tuy
nhiên vẫn có một thứ “keo” kết dính tôi với mọi người, đó là chất lính và nghề
văn. Nhưng ở Văn nghệ Quân đội một thời gian, tôi lờ mờ nhận thấy hình như chất
lính ở mỗi người cũng đậm nhạt khác nhau, có lẽ do “nguồn” chuyển về Văn nghệ
Quân đội là khác nhau. Có anh chất lính hình thành từ lính chiến như Nam Hà,
Chu Lai, Khuất Quang Thụy,… lại có anh chất lính manh nha hình thành sau mấy
tháng huấn luyện tân binh rồi về sống, làm việc trong môi trường nửa quân, nửa
dân nên chất lính đích thực chưa đậm nét.
Trước khi về Văn nghệ Quân đội, tôi đã sống trong
quân ngũ 24 năm. Nhìn chung mọi việc đã theo quy củ đúng luật nhà binh, “cơm ăn
ba bữa, quần áo mặc cả ngày”. Ở Văn nghệ Quân đội, tôi không chỉ được làm việc
yêu thích mà còn được thoải mái hơn. Nhưng khổ nỗi chất lính ăn sâu quá rồi,
nên hay cứng nhắc! Nhìn lại thấy thời gian làm việc tại Văn nghệ Quân đội tôi
đã học hỏi được nhiều, được mở mang tầm nhìn, có điều kiện nới rộng quan hệ nghề
nghiệp,… Mà xét cho cùng, có lẽ thế hệ tôi và Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hữu Quý,
Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Quốc Trung,… cũng chỉ là “gạch nối” ngắn ngủi giữa những
nhà văn lập nghiệp từ thời chiến tranh với các nhà văn lập nghiệp trong thời
bình. Từ khi chuyển ngành, hằng ngày tôi vẫn đi qua “Nhà số 4”, vẫn nhìn vào
ngôi nhà từ mấy chục năm trước tôi không dám mơ có ngày được đến đó tán gẫu với
Trần Đăng Khoa, bông phèng với Chu Lai, cười vang cùng Vương Trọng,… và ước mơ ấy
đã thành hiện thực.
@ Anh có tin rằng
những nhà thơ mặc áo lính sẽ vẫn tiếp tục hấp dẫn các thế hệ tương lai, trưởng
thành trong những môi trường khác với thời chiến?
Nguyễn
Hòa:
Về sứ mạng của thơ thì đấy là một khả năng, nhưng điều quan thiết là ở chỗ làm
thế nào để có và biến điều đó thành hiện thực. Văn nghệ Quân đội là cơ quan báo
chí văn nghệ của Quân đội, trước hết là do người lính viết, để người lính đọc,
cùng với đó là vì bạn đọc nói chung. Từng là thành viên Văn nghệ Quân đội nên
tôi biết các tác giả ở đó không bị bó buộc viết về đề tài chiến tranh cách mạng
và lực lượng vũ trang, mà có thể viết như mọi nhà văn khác trong xã hội. Nên dù
có ở Văn nghệ Quân đội hay ở đâu thì sự hấp dẫn bạn đọc đương đại và tương lai
vẫn cứ đến từ tài năng của người viết, từ sự trải nghiệm, từ những ý tưởng nhân
văn được suy ngẫm một cách sâu sắc trở thành “máu thịt” của ngòi bút. Còn viết
một cách bàng bạc, viết như để hoàn thành nhiệm vụ,… thì chẳng hấp dẫn được ai,
kể cả là người lính. Khi nhu cầu thẩm mỹ đã đa dạng hơn, các phương tiện thỏa
mãn nhu cầu thẩm mỹ cũng phong phú, tiện lợi hơn thì sáng tạo văn học cũng
không đơn giản, không phải hễ muốn là được, cứ viết là hay. Thêm nữa, Văn nghệ
Quân đội là địa chỉ văn học có uy tín, song không phải ai làm việc ở cơ quan
này cũng sẽ thành nhà văn có uy tín. Uy tín của nhà văn được xác lập từ những
gì họ viết và xuất bản, chứ không phải từ uy tín của nơi làm việc.
@ Có chăng một
truyền thống sáng tác mang tên “Văn nghệ Quân đội” được chuyển giao từ các thế
hệ trước cho tới đội ngũ các nhà văn, nhà thơ đang là chủ đạo ở “Nhà số 4”? Lại
có ý kiến cho rằng, phong cách và khuynh hướng sáng tác ở “Nhà số 4” hiện nay
đã được cách tân rất nhiều và căn bản đã khác trước, còn cái phong cách truyền
thống của Văn nghệ Quân đội đã được chuyển dịch theo chân các bạc đàn anh ở độ
tuổi hưu trí và chuyển công tác sang các cơ quan của Hội Nhà văn Việt Nam. Anh
nghĩ thế nào về ý kiến này?
Nguyễn
Hòa:
Để có một truyền thống văn học đã khó, nhưng tiếp nối và phát triển truyền thống
ấy như thế nào còn khó hơn, mà yếu tố hàng đầu để tiếp nối, phát triển truyền
thống là nỗ lực sáng tạo để giữ được bản sắc riêng. Mọi người yêu văn học đều
biết về truyền thống của Văn nghệ Quân đội trong hơn nửa thế kỷ qua, một thời
đó là “món ăn tinh thần” không thể thiếu của rất nhiều bạn đọc thuộc nhiều thế
hệ. Năm ngoái ở CHLB Đức, đến thăm một anh cựu chiến binh vốn là bộ đội Trường
Sơn, tôi thấy trên giá sách ở nhà anh một dãy Văn nghệ Quân đội, anh bảo “nghiện”
rồi, thấy là mua. Mới đây đến đảo Len Đao, tôi lại gặp cả dãy Văn nghệ Quân đội
trong tủ sách. Mỗi lần như thế, tôi đều tự hào khoe từng làm việc ở Văn nghệ
Quân đội và hình như lại được “nể” hơn. Nhưng quả cũng chạnh lòng khi nghe anh
cựu chiến binh nhận xét Văn nghệ Quân đội không còn được như trước, vì thiếu chất
lính. Tôi nghĩ, dù chỉ là ý kiến đơn lẻ thì đó cũng là điều cần tham vấn.
Cuộc sống phát triển, nhu cầu của người đọc đã khác
trước, văn chương cách tân để đáp ứng nhu cầu đó cũng tốt thôi, nhưng cách tân
mà ít đọng lại điều sâu sắc, không buộc người đọc phải tìm đến tác phẩm thì xét
đến cùng, cách tân chỉ như là cách nói khỏa lấp hạn chế trong khả năng sáng tạo.
À, mà câu hỏi này của anh hình như còn chứa đựng cả sự khôi hài? Về cơ bản,
truyền thống của một cộng đồng văn học được xây dựng từ nỗ lực sáng tạo của nhiều
thế hệ kế tiếp nhau. Khi mà truyền thống ấy có thể “bê” đi chỗ khác, hoặc theo
chân các tác giả về hưu, đã chuyển cơ quan,… thì xem ra đó là truyền thống mà lại
không phải là truyền thống, hay truyền thống đang có vấn đề? Chiến tranh kết
thúc 40 năm rồi, nhưng đi nhiều nơi và gặp nhiều người, tôi vẫn thấy chiến
tranh còn phảng phất đâu đó, nhất là những nỗi đau. Giữa thời bình, tôi đến những
nơi đèo heo hút gió với bộ đội biên phòng, ra Trường Sa gặp những người lính mà
tôi rất ngại ngùng khi nói những điều mà tôi biết đã có nhiều người nói với họ.
Gặp họ xong tôi lại trở về Thủ đô, phóng xe máy đi làm, cà phê cà pháo, chém
gió vô hồi, còn họ thì da đen cháy, quanh năm xa nhà, sống giữa trập trùng biển
khơi, nếu có chuyện gì xảy ra, họ sẽ là người đầu tiên ở nơi mũi tên hòn đạn. Đến
đó dăm ngày, viết mấy bài thơ, dăm cái bút ký hay bài báo gì đó thì cũng tốt,
nhưng bảo sẽ là tác phẩm “để đời” thì tôi không tin.
@ Trong số các
Tổng biên tập và Phó Tổng biên tập của tạp chí Văn nghệ Quân đội có hai Thiếu
tướng, đó là nhà văn Dũng Hà và nhà văn Hồ Phương. Tất nhiên, tôi cũng hiểu, mọi
sự so sánh đều khập khiễng, nhưng tôi rất muốn biết sự so sánh của anh, với tư
cách một nhà phê bình văn học từng đeo tới quân hàm đại tá, về hai ông tướng
văn đó? Họ có gì giống nhau, có gì khác nhau và tại sao không phải lúc nào cũng
suôn sẻ trong thời gian hai ông tướng văn này cùng làm việc chung trong một ban
biên tập?
Nguyễn
Hòa:
Khi tôi về làm việc tại Văn nghệ Quân đội thì hai anh Dũng Hà, Hồ Phương đã nghỉ
hưu. Tuy vậy tôi cũng quen biết các anh, được nghe một số chuyện về các anh. Mà
ở Văn nghệ Quân đội thì giai thoại nhiều lắm, phần lớn để trêu đùa, nên thường
có thêm mắm, thêm muối hay phóng đại để tăng hấp dẫn. Như giai thoại về chân
giò lợn trong tủ lạnh của Trần Đăng Khoa chẳng hạn. Giai thoại này ra đời hồi
Trần Đăng Khoa chưa lấy vợ, nấu ăn rất thất thường, anh em bảo chân giò để quên
trong tủ lạnh lâu đến mức lông của chân giò dài thêm cả chục xăng-ti-mét! Một lần
thấy anh Nguyễn Đức Mậu vẻ tư lự, bọn tôi hỏi mãi anh mới bảo: “Con gái sắp lấy
chồng, nó ở nhà chồng mà bị chồng đánh thì mình làm thế nào nhỉ?”. Anh em mỗi
người đưa ra cách giải quyết, riêng tôi thì đùa: “Nếu cháu bị chồng đánh, anh cứ
hô bọn em tới cho thằng rể nhà anh một trận”! Tôi về Văn nghệ Quân đội thì anh
Duy Khán mất rồi, giai thoại về anh cũng nhiều, vui và hóm hỉnh. Tôi hình dung
về con người hồn nhiên, đôn hậu của anh và liên tưởng tới Tuổi thơ im lặng.
Thân quen nhưng tôi gần anh Dũng Hà, còn anh Hồ
Phương thì xa xa thế nào ấy. So sánh trong cuộc sống đời thường thì anh Dũng Hà
chân chất, mộc mạc. Anh viết không nhiều, nhưng lại để lại cho tôi ấn tượng sâu
đậm qua Sao Mai, Sông cạn. Sao Mai xuất bản năm 1974, Sông cạn xuất bản xuất bản
năm 2006. Tôi vừa đọc xong Sao Mai thì nhập ngũ, nên thích và nhớ lâu. Còn Sông
cạn tôi đọc khi còn là bản thảo có nhan đề Đá vàng và coi đó là tác phẩm xuất sắc
của Dũng Hà, anh viết rất có văn. Đọc xong tôi hứa với anh sẽ viết một bài phê
bình. Nhưng khi Sông cạn ra đời thì cuốn sách lại không còn như bản thảo, tôi mất
luôn cả hứng thú. Hôm tiễn đưa anh, tôi thầm xin lỗi vì chưa làm được điều đã hứa.
Không được làm việc dưới quyền anh, nhưng qua trò chuyện, qua những gì anh em kể,
tôi biết anh Dũng Hà được quý mến vì đức độ và sự chân thành với mọi người. Về
việc “không phải lúc nào cũng suôn sẻ trong thời gian hai ông tướng văn này
cùng làm việc chung trong một ban biên tập” thì tôi biết rất ít, mà ngay cái số
ít ấy cũng cần phải xác minh cụ thể mới bình luận được. Nguyên tắc thực chứng
có yêu cầu khắt khe của nó, nên tôi không dám lạm bàn khi chưa nắm chắc.
@ Sắc áo tạo
thành đội ngũ. Anh có nghĩ rằng các nhà văn mặc áo lính thực sự đã tụ với nhau
thành một bản sắc văn chương không? Hay là những tài năng lớn nhất ở “Nhà số 4”
dù thế nào cũng vẫn giữ được bản sắc riêng khác biệt của mình và chính điều này
đã lý giải những lối đi khác nhau của họ trong cuộc sống, trong văn chương khi
cơ chế xã hội được nới rộng ra hơn so với thời chiến tranh?
Nguyễn
Hòa:
Tôi nghĩ sắc áo mới chỉ là một phương diện, phương diện nữa là đề tài được các
nhà văn mặc áo lính theo đuổi. Trong năm tháng chiến tranh, văn học viết về đề
tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang giữ vị trí chủ đạo là tất yếu,
và do các nhà văn cùng hướng về một đề tài để sáng tạo nên dần dà hình thành
nên bản sắc riêng. Sau chiến tranh, chỉ nhà văn nào thực sự tài năng mới có thể
đi tiếp, vượt ra ngoài khuôn khổ đề tài quen thuộc. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,
Lê Lựu, Chu Lai,… đã làm được điều này. Trong đó theo tôi, Nguyễn Minh Châu là
một trong số ít nhà văn sớm phát hiện để chuẩn bị bước vào chặng đường mới khi
cuộc sống xuất hiện các vấn đề mới, mà Miền cháy, Những người đi từ trong rừng
ra… là “gạch nối” để từ đó anh viết nên Cỏ lau, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát…
Tôi trân trọng sự tinh tế của Nguyễn Khải khi viết Gặp gỡ cuối năm. Anh phát hiện
một vấn đề xã hội - con người hết sức hệ trọng xảy ra sau chiến tranh và giải
quyết một cách vững tay. Còn Lê Lựu thì Thời xa vắng đã nói lên tất cả. Về sau
anh xuất bản Chuyện làng Cuội, Hai nhà nhưng khó có thể so sánh với Thời xa vắng.
@ Chúng ta đều
biết rằng, về người quá cố thì hoặc chỉ nói tốt, hoặc không nên nói gì cả. Tuy
nhiên, có những câu chuyện mà người quá cố để lại lắm lúc vẫn buộc chúng ta phải
nhìn thẳng vào một cách không né tránh, để giảm thiểu những hệ lụy tiêu cực đối
với những tên tuổi khác, đang còn sống hay cũng đã ra đi vào cõi vĩnh hằng. Tôi
muốn biết suy nghĩ của anh về những suy nghĩ của cố nhà văn Xuân Sách về các đồng
nghiệp của mình, đặc biệt là về những nhà văn, nhà thơ ở cùng “Nhà số 4”, qua
những bài vịnh rất tài hoa, rất sắc sảo nhưng lắm lúc cũng sát ván tới độ tàn
nhẫn của mình? Anh thích những câu nào và không thích những câu nào của Xuân
Sách?
Nguyễn
Hòa:
“Nghĩa tử là nghĩa tận” mà. Hồi ra cuốn Bàn phím và… “cây búa”!, bản thảo có một
đoạn tôi bình luận khá gay gắt về một Giáo sư nói sai sự thật. Đúng lúc sắp in
thì ông mất, tôi gọi điện tới nhà xuất bản đề nghị cắt đoạn đó trước khi in. Cuộc
sống không đơn giản, không thể buộc cuộc sống theo ý muốn của mình, vấn đề là ứng
xử sao cho có nghĩ lại cũng không ân hận. Nói thì thế nhưng làm được khó lắm. Bản
thân tôi cũng vậy, có phải lúc nào cũng tìm ra được giải pháp hợp lý, hợp tình.
Vài lần tôi dùng hai ba câu phác họa sự nghiệp của một nhà văn nào đó, thử ướm
hỏi đồng nghiệp, thấy có vẻ được tán thưởng. Nhưng sau lại xóa khỏi bộ nhớ, vì
thấy hơi phũ phàng, công bố thì dễ làm tổn thương người khác. Chân dung nhà văn
của Xuân Sách cho thấy ông đọc khá nhiều, có khả năng khái quát để dựng thành
chân dung. Mỗi chân dung chỉ có mấy câu thơ, thường thì một hoặc hai câu cuối
là lời bình của Xuân Sách, những câu này có nét gì đó bi hài, vài ba trường hợp
có vẻ hơi tàn nhẫn, nhất là với người đã khuất. Các bài viết về Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Hồ Phương,… có một số câu đọc thú vị, ở đây tôi chỉ xin dẫn
lại bài của Xuân Sách viết về Nguyên Ngọc: Mấy lần đất nước đứng lên - Đứng lâu
cũng mỏi cho nên phải nằm - Hại thay một mạch nước ngầm - Cuốn trôi Đất Quảng lẫn
rừng Xà Nu!
@ Có ý kiến
cho rằng, nếu không có góc nhìn đúng đắn, nhân ái thì ta luôn chỉ nhìn thấy những
khúc xạ méo mó về những người khác... Anh nghĩ thế nào về ý kiến này? Phải
chăng đó là căn bệnh cố hữu của những người muốn khẳng định chính mình bằng
cách chứng minh rằng những đồng nghiệp khác đều kém cỏi? Tất nhiên, tôi không
phủ nhận rằng, trong đời sống văn học hiện nay đang tồn tại và tiếp tục nảy
sinh một số hiện tượng tiêu cực cần tới hoạt động phê phán của cái bàn phím với
“cây bút thép”... Nhưng sử dụng “cây búa thép” như thế nào trên bàn phím cho hợp
nhẽ lại không bao giờ là việc đơn giản cả...
Nguyễn
Hòa:
Đã bao giờ anh được bạn bè hỏi: “Tại sao ông chơi với thằng ấy?” chưa? Tôi đã
được hỏi đôi lần, chủ yếu vì họ thấy tôi giao du với người họ không thích. Được
hỏi tôi chỉ cười, vì việc người này không thích người kia là bình thường, vả lại
ai cũng có phần tử tế, và tôi chơi với cái phần tử tế ấy. Tuy nhiên, tâm lý
không muốn ai hơn mình, thấy ai hơn mình là dèm pha theo lối “ghen ăn tức ở” (cụm
từ đã được cánh trẻ bây giờ khái quát một cách lý thú là… GATO!) có thể làm hại
các quan hệ xã hội, còn trong nghề văn thì có thể làm hại đồng nghiệp, hại văn
học. Thật buồn vì có người như tìm thấy khoái cảm khi mang đồng nghiệp ra làm
“mồi nhậu”, rồi mổ xẻ, soi mói, bới móc làm méo mó hình ảnh đồng nghiệp. Câu hỏi
của anh làm tôi nhớ đến nhà nghiên cứu nọ, khi phóng viên hỏi về thói xấu của
người Việt thì ông chém gió búa xua, tới khi hỏi ông có thói xấu nào không thì
đùng đùng bỏ về. Thừa nhận bản thân cũng có thói xấu chắc chắn sẽ được trân trọng
hơn, đâu vì thế mà xấu đi. “Nhân vô thập toàn”, cổ nhân nói vậy rồi. Có gì bảo
đảm ai đó đã hoàn thiện đến mức không tỳ vết? Bới móc làm méo mó hình ảnh người
khác là hành xử tiểu nhân, không chứng tỏ hơn người, chỉ chứng tỏ sự thấp kém.
Càng lớn tuổi tôi càng cố nhận diện bản thân để tự điều chỉnh, để có cái nhìn
nhân ái hơn, bao nhiêu năm mới rút ra được điều đó, mà thực hiện đâu có dễ.
Đời sống văn học xem ra ngày càng phức tạp, hỗn độn,
với sự “lên ngôi” của sự phù phiếm kèm theo là các “giá trị giả” nên nhiều khi
tôi chán ngán, chẳng thích viết phê bình nữa. Về xu hướng thì nhiều người thường
thích khen chứ không thích chê. Chắc vì thế trong một số trường hợp, người ta
viết như khen lấy được, rồi sử dụng vài lý thuyết nhặt nhạnh thiếu hoàn chỉnh từ
nước ngoài để bảo lãnh cho lời khen. Khi ông tây đã bảo thế này, bà tây đã nói
thế kia thì chẳng nhẽ còn dám phê phán? Mấy năm trước, thấy một số tác giả quảng
bá chủ nghĩa hậu thực dân là “hợp xu thế, hợp quy luật… vấn đề mới mẻ và có ý
nghĩa, có tính khả thi, hứa hẹn cho những suy tư lý thuyết cũng như những thực
hành phê bình của người nghiên cứu”, tôi tìm hiểu xem sao, thì phát hiện người
ta làm rùm beng một lý thuyết mà người ta chưa rành rẽ. Cực chẳng đã tôi phải
viết một tiểu luận đề cập bản chất vấn đề và đề nghị nên thận trọng. Công bố
hơn nửa năm rồi, chưa thấy ai phản bác, rồi cũng ít thấy ai nhắc đến chủ nghĩa
hậu thực dân! Quả là văn đàn đang cần những “cây búa” gõ lên bàn phím để có những
bài phê bình nghiêm khắc, hữu lý, thuyết phục.
@ Có ý kiến
cho rằng, một tổ chức như Hội Nhà văn Việt Nam luôn là một định chế cần thiết
và hữu ích, ít nhất đó có thể còn là một diễn đàn để những người sáng tác với
những phong cách nghệ thuật và tư duy xã hội khác nhau tới cùng trình bày ý kiến
để tìm những điểm đồng nhất hay gần gụi nhằm chung tay góp ích cho dân, cho nước.
Anh có nghĩ như thế không? Vì sao?
Nguyễn Hòa: Được như vậy thì quá tốt,
tôi sẽ làm đơn xin vào ngay. Tôi nghĩ, một tổ chức có vai trò tập hợp nhà văn
có chung mục đích sáng tạo theo các giá trị chân - thiện - mỹ, vì các giá trị
chân - thiện - mỹ, để làm nên các giá trị chân - thiện - mỹ, sẽ góp phần quan
trọng vào tiến trình phát triển văn hóa đất nước,… Cùng cộng đồng nghề nghiệp
trao đổi, thảo luận, tranh luận một cách thiện chí chắc chắn là sẽ kích thích
khả năng sáng tạo, giúp mỗi người xác định, củng cố thái độ trách nhiệm với
công chúng, với văn hóa, với đất nước. Đáng tiếc là điều chúng ta mong muốn
hình như vẫn ở thì tương lai? Gần đây, tôi đọc một bài viết có đoạn: “Một tác
giả trẻ chia sẻ trên trang cá nhân của mình rằng: có lần anh ta tình cờ được
tham dự một cuộc “hội đàm” văn chương. Điều anh ta ngạc nhiên là người to tiếng
nhất, phát ngôn hùng hổ nhất ở đó lại là người chẳng viết được tác phẩm nào
đáng kể, trong khi người lặng lẽ nhất lại là người mà ai nghe tiếng cũng phải
ngả mũ kính phục”. Tôi gặp hiện tượng như vậy nhiều rồi, dẫn lại vì nghĩ khi một
tác giả trẻ nhận ra điều không đáng tự hào ấy, họ sẽ tránh và nếu có trách nhiệm,
họ sẽ tìm ra cách thức khác để cùng cộng đồng nghề nghiệp hội họp, bàn luận một
cách có ý nghĩa.
@ Tôi vẫn luôn
nghĩ rằng người sáng tạo đích thực quan tâm hơn cả đến quá trình sáng tạo tác
phẩm và xa lạ với mọi sự bon chen tìm kiếm phù hoa xung quanh tác phẩm. Thế
nhưng, vì sao đấy trong làng văn lại hay sinh ra những vụ lùm xùm tranh cãi,
đôi khi rất nặng lời, liên quan đến những vinh thăng nghệ thuật. Anh lý giải về
hiện tượng này như thế nào?
Nguyễn
Hòa:
Đúng vậy! Tôi đã từng băn khoăn với các câu hỏi: Tại sao Nguyên Hồng tìm đến Bắc
Giang? Tại sao Phù Thăng về Hải Dương thà làm bác nông phu hơn là làm văn sĩ ở
đô thành, và cuối đời viết ông các câu thơ “Tuổi già hạt lệ sương rơi - Mà nay
lại mặn muối đời chứa chan¬ - Cành đào tưởng đã phai tàn - Bỗng hừng lên bởi
chính làn gió em - Thổi vào quá khứ lặng im - Cho hoa vạn thọ bừng lên sắc
vàng” (dẫn theo Ngô Vĩnh Bình)? Tại sao Hữu Loan mai danh ẩn tích ở xứ Thanh để
ngày ông mất, trong Điếu văn tiễn biệt ông có câu: “thế hệ đời sau nhớ mãi một
nhà thơ chiến sĩ, nhớ mãi thi nhân chở đá xây đời”?... Đặt sang một bên hệ lụy
từ va vấp, tôi đồ rằng các ông lựa chọn sự yên bình, xa lánh “mọi sự bon chen
tìm kiếm phù hoa” như bạn đã đề cập? Khi mà còn có nhà văn ở tỉnh nổi danh vì
“chiến đấu” với đồng nghiệp trong tỉnh, khi mà còn có nhà văn ở đô thị lớn nổi
danh vì “chiến đấu” với nhà văn ở đô thị lớn,… liệu họ có còn thời gian để sáng
tạo văn chương? Câu hỏi của bạn làm tôi nhớ một chuyện. Cách đây mấy năm, tôi
được mời dự một bữa cơm tại gia. Không phải là kẻ ham nhậu nhẹt, nhưng vì anh
em nhiệt tình mời, mà cũng ham vui nữa, nên tôi nhận lời. Dự bữa cơm chưa đến
chục người, trong đó có hai anh tôi không quen, sau biết đó là “sếp” của một
nhà thơ được coi là nổi tiếng và hồi ấy đang có lùm xùm về chuyện “đạo văn”.
Lòng vòng một lúc, gia chủ ngỏ ý nếu có ý định viết thì tôi bỏ qua cho nhà thơ
kia, hai anh “sếp” cũng thêm thắt đồng tình. Và tôi hiểu lý do có mặt của hai
anh. Oái oăm là đúng giữa trưa hôm đó, trang mạng nọ đăng bài của tôi viết về
nhà thơ “đạo văn”, không dừng được nữa. Vậy rồi chỉ mấy năm sau, nhân một lần
xét trao giải thưởng về văn học, nghệ thuật, nhà thơ kia lại đăng đàn để “oánh”
một trong hai anh “sếp” tơi bời khói lửa. Đọc ý kiến của nhà thơ, tôi tự hỏi:
Không hiểu nhà thơ có biết gì về hành xử chân tình của chính người bị “oánh” từng
dành cho nhà thơ? Nếu không nhà thơ biết thì thôi, nếu biết mà cư xử như vậy
thì thật đáng buồn, không còn điều gì để nói.