Thi ca có giá trị
gì trên cuộc đời? Câu hỏi ấy có lẽ không dành cho kẻ thờ ơ. Với nhiều người may
mắn và thực dụng, thi ca hoàn toàn vô nghĩa. Thế nhưng, với nhà thơ khiếm thị
Lê Đình Hòa, thì thi ca là tất cả. Thi ca không chỉ cho anh điểm tựa vượt qua
những ngày buồn thương, mà thi ca còn giúp anh có được lương duyên hạnh phúc.
Trong bóng tối hẩm hiu của số phận, thi ca giống như đôi mắt cho Lê Đình Hòa
nhìn thấy cuộc sống ấm áp, mà thi ca cũng giống như lăng kính để những tâm hồn
đồng điệu sẻ chia với từng nhịp đập trái tim Lê Đình Hòa!
TÌNH THƠ NỐI
DUYÊN HOA PHƯỢNG TRẮNG
LÊ THIẾU NHƠN
Sáng tạo không phân biệt sang hèn, và văn
bản nghệ thuật cũng không chỗ cho những ái ngại và xót xa. Tôi tin như vậy, khi
viết về nhà thơ khiếm thị Lê Đình Hòa, bởi lẽ tác phẩm của Lê Đình Hòa đủ sức
để đại diện cho khát khao của anh, mơ ước của anh, run rủi của anh, xao xác của
anh. Sinh ra trong gia đình có 6 đứa con, từ nhỏ Lê Đình Hòa đã có năng khiếu văn chương. Hiền lành, chăm chỉ và
học giỏi, Lê Đình Hòa từng là niềm hy vọng của cả nhà. Bố của anh mất sớm, mẹ
của anh chịu đựng góa bụa làm
lụng nuôi con khôn lớn. Không phụ công mẹ, Lê Đình Hòa trúng tuyển vào Trường
ĐH Sư phạm Qui Nhơn. Thế nhưng, dự định trở thành giáo viên của Lê Đình Hòa bị
cắt ngang vì một biến cố quái ác. Năm thứ hai ở giảng đường, Lê Đình Hòa cứ
thấy mắt mình mờ dần, mờ dần
từng ngày. Thương con, mẹ của Lê Đình Hòa bán chiếc nhẫn cưới – di vật duy nhất
bố của anh để lại, hòng chữa chạy cho anh. Những năm đầu thập niên 80 của thế
kỷ trước, bác sĩ chỉ có thể xác định Lê Đình Hòa bị teo dây thần kinh thị giác
nhưng không có phương pháp điều trị.
Lê Đình Hòa nhớ lại: “Tháng 6-1984, tui
quay lại ký túc xá để thu dọn hành trang và giã biệt thời sinh viên. Bạn bè ôm
tui khóc nức nở, mà tui vẫn chưa
hết bàng hoàng vì định mệnh nghiệt ngã ập xuống bản thân nên không rơi được giọt nước mắt nào. Đêm cuối cùng ở
Qui Nhơn, tui ra mộ Hàn Mặc Tử ngồi đến sáng. 21 tuổi, tui không biết ngày mai
của mình ra sao!”. Bơ vơ và hoang mang, Lê Đình Hòa trở về mái nhà xưa sống với
người mẹ héo mòn vì đau khổ, ở thị trấn Phú Lâm, Tuy Hòa, Phú Yên.
Bóng tối và bóng tối bủa vây, chàng trai Lê
Đình Hòa hoạt bát hôm nào chỉ còn biết co ro ngồi trong bóng tối. Mẹ của Lê
Đình Hòa cũng đã trải qua rất nhiều cơ cực, đôi vai bà đã quá mệt mỏi trước bao
nhiêu giông bão tảo tần. Đôi
mắt Lê Đình Hòa đột ngột bị cướp đi, thực sự là một đòn chí mạng khiến bà ngỡ
như đổ quỵ. Tuy nhiên, với tấm lòng của một người mẹ, bà không nỡ nhìn con trai
cứ suy sụp triền miên. Bà muốn Lê Đình Hòa tiếp tục một cuộc sống khác, dẫu mịt
mờ hơn, dẫu thiệt thòi hơn. Bà lục tung đống sách vở cũ của con trai, để tìm lại những bài thơ mà Lê Đình Hòa
đã sáng tác thuở mộng mơ mái trường trung học. Bà vốn dân quê chân lấm tay bùn,
bà không thể rạch ròi cái hay cái đẹp của thơ, nhưng bà mong con trai có thể
nhờ thơ để giải bày, để buông bớt tủi hờn, để có lối thoát tương lai. Lắng tai
nghe người mẹ quanh năm buôn thúng bán bưng cất giọng nghẹn ngào đọc những câu
thơ mình viết dạo nào: “Nhà em ở phía
chân trời ấy. Thương nhớ đi vòng mấy xóm quê. Những hội ngày xuân nay đã vãn.
Bươm bướm trễ mùa bay ngẩn ngơ”, Lê Đình Hòa chợt nhận ra mình còn có thơ.
Lê Đình Hòa biết rằng đã đến lúc phải dựa vào thơ để đứng dậy, vì mẹ và vì
mình!
Chấp nhận nghịch cảnh, Lê Đình Hòa làm thơ
về chính khoảnh khắc đen đủn nhất của mình: “Ta bỏ trường nhung nhớ để ngàn sau. Làm xa lạ bỏ tình
yêu giữa phố. Chiều nghiêng môi uống cùng ta bão tố.
Trời rưng rưng trăng chín sắp rơi rồi. Sóng làm ta hoảng sợ chạy
mòn hơi. Ta vấp ngã bên vỉa hè đại học” và cái đêm tạ từ Hàn Mặc Tử đắng đót ở đồi gió
Quy Hòa: “Chút hương vị phong cùi
trên mặt đất. Ta còn gì giữ lại Quy Nhơn ơi...”. Từ đó, thi ca trở thành người bạn đồng
hành với Lê Đình Hòa. Và người mẹ của Lê Đình Hòa bao giờ cũng ngân ngấn khóe lệ khi con trai nhờ chép lại những câu thơ vừa
được hình thành trong tâm trí, dù lắm lúc là những lời buồn váng vất khôn nguôi: “Cuộc chơi đến nỗi mía trổ bông cũng hóa thành lau trắng. May mà cõi thơ
còn xót một nhành trăng. Mùi hương gần quá không thơm nữa. Riêng đóa vô ưu nở
vĩnh hằng”.
Tôi quen Lê Đình Hòa đã hơn 20 năm, có tình
đồng hương và có tình văn chương. Mỗi dịp về Phú Yên, tôi đều ghé thăm Lê Đình
Hòa và cố gắng thu xếp đưa anh đi chơi đâu đó. Nhà của Lê Đình Hòa cách trung
tâm thành phố Tuy Hòa khoảng 5 cây số, phân định bằng bên này và bên kia sông
Đà Rằng. Có lần ngồi sau xe tôi, Lê Đình Hòa bất chợt ngâm nga: “Một khúc sông bốn cây cầu lữ thứ. Ta và em
cuộc gặp tình cờ” khiến tôi giật thót. Đúng là có bốn cây cầu nối dọc nối
ngang ở khu vực này, nhưng tôi chưa bao giờ để ý. Tôi tỏ vẻ thán phục, Lê Đình
Hòa thật thà: “Tui bị mù, dễ gì được ra khỏi nhà, nên mỗi khi đi phải luôn cố
gắng cảm nhận và thu nạp xung quanh để tự bù đắp cho mình!”.
Các anh chị em của Lê Đình Hòa lần lượt lập
gia đình riêng. Lê Đình Hòa lủi thủi ở nhà với mẹ già. Mỗi ngày, ngoài thời
gian nghe đài, Lê Đình Hòa dọ dẫm trong ngõ hẻm quanh co bên hông chợ Phú Lâm. Anh thuộc từng mảng tường loang lổ, và
thuộc từng căn hộ láng giềng cách xa bao nhiêu bước chân. Từng tháng từng năm
trôi qua trong thơ Lê Đình Hòa như những trang nhật ký. Lê Đình Hòa nghe được
sự chuyển mùa lặng lẽ: “Một chút
mơ màng trong sương tím. Hồ thu vừa khép cánh sen thơm.
Mình có ai đâu mà lỡ hẹn. Chiều ngồi bó gối đợi trăng lên”, nghe được sự thay đổi bần thần: “Hôm nay mưa xóa mờ phong cảnh. Trắng cả cành
dâu sẫm lá tơ. Nào hay thoáng chốc đàn chim lạnh. Mang cả mùa đông vội vã về”
và nghe được cả sự hiu quạnh cá nhân: “Chao ôi, ngày đuối trên sông
cạn. Tóc dại hồn nhiên ngập trắng đầu”.
Không khó nhận ra, thơ Lê Đình Hòa thường
xuất hiện từ “trắng”, đấy là
màu sắc lờ mờ ám ảnh cuối cùng trước khi anh mất hẳn ánh sáng. Lê Đình Hòa thổ
lộ: “Người ta nhìn thấy hoa phượng đỏ, còn mùa hè chấm dứt giai đoạn bút mực
của tui chỉ có hoa phượng trắng!”. Tôi dám chắc, những ai đọc thơ Lê Đình Hòa
cũng vẫn thấy sức quyến rũ của hoa phượng trắng, khi anh rộn ràng: “Mây trắng nhập vào hoa phượng trắng. Ta ngồi
xếp lại giấc mơ xưa. Người đi về phía vang rền nắng. Phố cũ nhìn theo mộng hải
hồ” và khi anh tư lự: “Hai con mắt
chói lòa hoa phượng trắng. Tóc mấy sợi nhàu chờ hóa mây bay”.
Lê Đình Hòa nói chuyện nhỏ nhẹ và sâu sắc, tôi
dám chắc trước khi bị mù thì anh cũng được không ít cô gái thầm
thương trộm nhớ. Lê Đình Hòa chân thành xác nhận, tuổi cặp kê anh cũng có mối
tình với nữ sinh cùng trường, nhưng từ ngày anh khiếm thị thì không còn liên
lạc nữa. Mối tình đang nồng nàn bỗng bất ngờ cách ngăn trớ trêu ấy, lâm ly như
thơ anh viết: “Một lần liều mạng đến thăm
em. Chiều đã cài then nắng ngủ thềm. Lơ mơ tôi đứng bên hàng dậu. Thiên lý u buồn phảng phất
hương”, và cũng đành cầu chúc cho người xưa an
vui lấy chồng: “Những áng mây bay rối nửa
trời. Những hình dung cũ em xa xôi. Đèn hoa hòa bóng hoa giăng mắc. Anh biết
làm sao thương nhớ ơi...”.
Cứ ngỡ Lê Đình Hòa phải vò võ một mình với
ngổn ngang lận đận: “Nghe gió mách những lời ác độc. Tôi buồn vì
cô hàng xóm ở không. Ba năm tu chùa không bằng một ngày tu chợ. Soi gương không
thấy bóng mình, chỉ thấy bóng cô đơn”, thì có một ngẫu nhiên long lanh
cổ tích. Tình cờ đọc được một bài
báo viết về Lê Đình Hòa trên một tờ báo, cô giáo Trần Thị Hạnh đang dạy mầm non ở thị trấn Chợ Rã, huyện Ba Bể,
Bắc Cạn đã viết thư làm quen và động viên anh. Thư đi thư lại cũng thấy bất
tiện vì anh phải nhờ người đọc dùm, Trần Thị Hạnh quyết định thu âm những tâm
sự của mình để gửi vào miền Trung cho anh nghe. Cô giáo Trần Thị Hạnh cũng có
làm thơ với bút danh Hạnh Vân nên hai trái tim nhanh chóng có cùng nhịp đập. Có
được hồng nhan tri kỷ, Lê Đình Hòa quyết định tỏ tình: “Có ai về Bắc Cạn anh nhắn thăm. Em không thể chỉ là em gái. Ước gì cha
mẹ đừng già, chúng mình trẻ mãi. Chân trời góc bể tìm nhau”. Thấu hiểu hoàn
cảnh Lê Đình Hòa “Đêm thật buồn, đêm như
vực sâu. Anh đăm đắm nhìn về phương Bắc. Anh sống được nhờ thơ, nhờ hoa và nhờ
ảo giác. Và nhiều khi anh sống nhờ nước mắt”, Trần Thị Hạnh ngồi xe đò vượt
hơn ngàn cây số tìm đến tận nhà anh cho thỏa mong ngóng. Bàn tay nắm lấy bàn tay, ấp iu và gần gũi, không
ai nỡ chia lìa.
Biết bản thân tự xoay sở đã khó, mà Trần
Thị Hạnh cũng phải đối mặt với sự khuyên can của dòng họ, Lê Đình Hòa ngậm ngùi
cho cơ duyên trùng phùng: “Thôi đừng buồn
nữa Hạnh Vân. Đêm màu trắng, người phân thân tìm người. Vết thương gào xé trêu
ngươi. Xót xa ai biết, ngậm ngùi ai hay”. Thế nhưng, Trần Thị Hạnh vẫn
quyết định làm dâu đất Phú Yên. Đám cưới của họ được tổ chức giản dị vào cuối
năm 2004. Chuyện tình đẹp như một truyện phim của họ được đánh dấu bằng sự ra đời của đứa
con gái Lê Trần Phương Anh!
Hơn
10 năm qua, vợ chồng nhà thơ khiếm thị Lê Đình Hòa đỡ đần và che chở nhau vượt qua những chật vật cơm áo
với niềm tin “bên dốc kia vẫn còn dung dăng nắng”. Đôi khi hạnh phúc chênh chao, Lê Đình
Hòa xoa dịu bằng thơ: “Thưa em
chuyện đã lỡ rồi. Xin em bỏ quá cho người chiêm bao”. Thương chồng và tháo vát, Trần
Thị Hạnh ngược xuôi vun đắp cho tổ ấm của họ ngày thêm vững bền. Đáp đền ơn vợ, Lê Đình Hòa chắt lọc tài sản thi
ca suốt 30 năm sống trong bóng tối vừa qua của mình, để in tập thơ lấy tên là
“Cõi Hạnh”!
6-2015