
Phát biểu tại Hội nghị Tam Đảo chiều
4-6-2013 và trong ba bài báo liên tiếp các ngày 16 và 17-7-2013, GS TS Trần
Đình Sử quyết liệt bảo vệ Luận văn
của Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) và những người liên quan - Người hướng dẫn khoa
học và Hội đồng chấm luận văn. Cho rằng họ làm việc đúng qui chế, phải được qui
chế bảo vệ, nếu không sẽ là phá hoại sự nghiệp đào tạo trên đại học của nước
nhà (!). Xem Luận chiến văn chương.
Quyển Ba. Chu Giang. NXB Văn học. H. 2015. Mục Kiểm dịch Trần Đình Sử. Sự quyết liệt với tinh thần khoa học trách
nhiệm hay do đồng bệnh tương lân có
tật giật mình. Nay xem xét Luận án Tiến sĩ: Lý
thuyết trò chơi và một số hiện tượng thơ Việt Nam đương đại. Chuyên ngành
Lý luận văn học. Mã số 62. 22. 32. 01 của Trần Ngọc Hiếu do GS. TS Trần Đình Sử hướng dẫn khoa học.
Bảo vệ năm 2012 tại Đại học Sư phạm Hà Nội thì rõ ràng GS TS TĐS ở vào trường
hợp sau, do đồng bệnh tương lân. Vì vậy phải tiếp tục kiểm dịch đối với cặp bài
trùng này: Người hướng dẫn khoa học và người thực hiện luận án.
KIỂM DỊCH TRẦN ĐÌNH SỬ
CHU GIANG
Trước hết kiểm dịch Luận án.
Việc này không khó. Vì đã có hướng
dẫn của Đỗ Thị Thoan: "Cảm ơn thạc sĩ Trần Ngọc Hiếu vì sự sâu sắc đa dạng
trong các bài viết về thơ ca và lý thuyết chứa đựng nhiều tiềm năng kích thích
và gợi mở quí báu..." (Lời cảm ơn.
Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn Vị trí
của kẻ bên lề và thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hoá. Người
hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Bình. Bảo vệ tại Đại học Sư phạm Hà Nội
năm 2010)
Tiềm năng kích thích và gợi mở đó
được Trần Ngọc Hiếu phát triển, thể hiện trong Luận án này. Luận án Lý thuyết trò chơi... (từ đây xin viết
tắt là LTTC) có ba chương:
Chương I: Trò chơi - lý thuyết trò
chơi trên tiến trình vận động
Chương II: Trò chơi như một khuynh
hướng trong thơ Việt đương đại.
Chương III: Một số mô hình trò chơi
trong thơ Việt đương đại.
Ở Chương I, thầy trò Trần Ngọc Hiếu
(TNH) rất một công đôi việc. Vừa khoe được kiến thức về lý thuyết trò chơi từ
cổ đến kim vừa khẳng định trò chơi là một tác nhân thay đổi xã hội. Từ Plato,
Aristot... đến Roland Barthes, Bakhtin và hậu hiện đại như Derrida... cho rằng
"mọi văn học đều là trò chơi" và
như Bakhtin thì sự chơi "có khả năng
phá vỡ những hình thức bền vững của ý thức và hành vi xã hội. Bằng cách chơi với (C.G. nhấn mạnh) những tư tưởng
được đặc quyền, tưởng tượng ra những tư tưởng đối lập với chúng và đứng về phía
đối lập ấy, một nhà tư tưởng có thể biến một trò chơi của sự "giả định/
nếu như (a game of what if) thành một phương tiện trực tiếp tạo ra sự thay đổi
xã hội (LA. Tr15-16). Và Sự chơi vượt
ngưỡng (transgressive play) vừa là một tác nhân hiệu lực dẫn đến sự đổi thay xã
hội vừa là bản thân sự đổi thay xã hội" (LA. Trg 16). Từ đó, tác giả
luận án đưa ra "tuyên ngôn lý luận": "chúng tôi quan niệm trò
chơi như một xung lực tinh thần nhiều
hơn, tức là tương đương với từ "play" trong tiếng Anh. Từ xung lực
của sự chơi này, những trò chơi (game) mới sẽ được hình thành. Như thế, cũng có
thể suy ra sự chơi là một cội nguồn phát
sinh của các hiện tượng văn học, vốn được
xem như các trò chơi" (L:A. Trg 25).
Như thế, tư tưởng của Luận án không có gì mới mà chỉ nhại lại,
diễn đạt lại tư tưởng của các học giả nước ngoài. Và không đúng với thực tiễn.
Sự chơi, trò chơi là một thực tế, một phần hoạt động của con người. Nhưng xem
mọi văn học đều là trò chơi. Mọi hoạt động đều là trò chơi, là cội nguồn của
văn học, là điên rồ! Nhưng ở đây mục đích không đơn thuần nghiên cứu trò chơi,
mà đáng quan ngại hơn: chơi (theo
Derrida) chính là động thái phá vỡ sự hiện hữu (LA. Trg 17). Ở phần Phụ lục, càng rõ hơn: Sự chơi
và trò chơi như là phương tiện để phá vỡ các tôn ti và các địa vị đặc quyền vốn
áp đặt đặc quyền lên các cá nhân trong xã hội phương Tây (PL. 7). Và
"bản chất của mọi hoạt động đều là chơi" (Kostas Axelos. PL.12). Sự
chơi ở đây có mục đích xã hội rõ ràng: Sự
chơi vượt ngưỡng vừa là một tác nhân hiệu lực dẫn đến sự đổi thay xã hội đồng
thời vừa là chính bản thân sự đổi thay xã hội. (PL. 18) rằng trò chơi của
sự phát tán (play of dissemination) mà trong trò chơi này, bất cứ cái gì cuối cùng cũng trở nên xói mòn bởi sự vượt ngưỡng (PL
20)
Thầy trò tác giả Luận án tỏ ra vọng ngoại có mục đích về lý thuyết trò chơi để làm cơ sở, bàn đạp,
điểm tựa cho việc khẳng định giá trị, đề cao thơ Trần Dần, Lê Đạt và thơ của
nhóm Mở Miệng ở các chương sau.
Khi dẫn lại tư tưởng của các tác giả
nước ngoài cần phải phân tích cơ sở xã hội lịch sử - văn hoá của các luận điểm
đó. Hoàn cảnh xã hội lịch sử - văn hoá ở Việt Nam hiện nay có tương đồng với
các lý thuyết đó không? Chỗ nào có thể tiếp thu. Chỗ nào là không thể. Luận án hoàn toàn lẩn tránh vấn đề này.
Điều này sẽ được nói rõ ở phần sau, về trường hợp thơ Trần Dần, cũng như Mở miệng và các thứ rác rưởi khác.
Biết nhiều về lý luận bên ngoài cũng
tốt và cần thiết. Nhưng thực tiễn văn hoá dân tộc, thiển nghĩ, nếu không cao
hơn thì cũng không kém gì các lý thuyết bên ngoài về sự chơi và trò chơi.
Hãy quan sát đời một con người, từ
lúc lọt lòng cho đến khi nhắm mắt, sự chơi và trò chơi của nó và đối với nó như
thế nào? Mỗi giai đoạn, mỗi hoàn ảnh... có những trò chơi gì. Từ cá nhân đến
cộng đồng, dân tộc. Trò chơi của người Việt trong văn hoá trong văn học nghệ
thuật như thế nào? Nếu biết tổng kết, khái quát sẽ có được một lý luận không
kém gì của thiên hạ. Dân gian ta nói gì? Làm
trai cho đáng nên trai/ Phú Xuân cũng trải Đồng Nai cũng từng. Cụ nghè Trần
Bích San có câu Văn vô sơn thuỷ phi kỳ
khí/ Nhân bất phong sương vị lão tài. Ông bà ta nói: Nghề chơi cùng lắm công phu. Ăn có nơi chơi có chốn... là một lý
thuyết cực kỳ sâu sắc về trò chơi.. Truyện cười, truyện tiếu lâm, Trạng Quỳnh -
Xiển Bột, Hồ Xuân Hương là những mô hình
mẫu mực trong trò chơi văn chương. Không biết trên thế giới có cái truyện Thầy đồ ăn bánh rán không nhỉ? Hoặc na
ná như thế. Xin các quí Thầy thông thạo ngoại ngữ chỉ dẫn cho.
Cái nguy hiểm của Lý thuyết trò chơi... mà thầy trò Trần
Đình Sử - Trần Ngọc Hiếu vận dụng là ở chỗ dùng
trò chơi văn chương (trò chơi thơ, chơi chữ nghĩa để giải trung tâm, giải thiêng, giải chính thống, giải trật tự hiện
hữu, giải truyền thống văn hoá lịch sử - như là một tôn ti, trật tự siêu
nghiệm.
Điều đó thể hiện ở các chương II và
III. Trong hai trương này, không cần phân tích dài dòng vì nó rất tương đồng
với Luận văn của Đỗ Thị Thoan. Chỉ
phân tích một vài trường hợp để thấy được thâm
ý rất lộ liễu của thầy trò Luận án.
Về Trần Dần: Khi xem Trần Dần chỉ
trên văn bản thơ của ông là chưa đủ. Cần phải nghiên cứu toàn diện đời sống và
sáng tác của Trần Dần.
Chúng tôi kính trọng tuổi tác của
Trần Dần, trân trọng tài năng của ông. Nhưng có thể nói ông là con người vị kỷ cực đoan. Sáng tác của ông đúng là
những cơn rồ chữ trong một trạng thái
tinh thần u uất, phẫn uất, tự trói buộc giam hãm mình, triền miên trong tâm
trạng đó. Suốt mấy chục năm trời (từ sau Nhân văn - Giai phẩm - 1958) ông chỉ ngồi một chỗ tựa vào bức tường
đến thành hằn vết, chai rượu một bên, điếu cày một bên, nhìn vào khoảng không
nhưng thực ra là chìm vào những cơn rồ chữ.. Những sự kiện của đời sống xã hội
từ sau Nhân văn cho đến sau 1975, bom đạn đêm Giáng sinh 1972 rồi trận Điện
Biên Phủ trên không dường như không lọt vào căn phòng của ông, ở phố Hội Vũ,
cách ga Hàng Cỏ chỉ mấy trăm mét. Phải hiểu như thế để cảm thông, thể tất về
những trò chơi thơ chơi chữ chơi âm của ông.
Luận án không đi
vào chỗ này mà tâng bốc Trần Dần và trích dẫn những chỗ chỉ làm cho hình ảnh
Trần Dần thêm nhơ nhớp: "Nhoe nhoét.
Toè toẹt thi sĩ thịt chộn thịt nhào quết quệt bùn thịt lòng lọc bóc trong nuốt
suốt... Tôi dính nhem nhép mọi chỗ, vác hai chân thịt, quền quệt vệt phố, be
bét ki lô mét. Nhoè nhoẹt hết" (Thằng
thịt. LA. 150) và những thứ như thế này:
tôi thíc thoả
ngoạ cắn/ nắn mím/ thím nách/ jạch phím/ jịm núm/ jụm sách/
lạch joác/ xoạc bóc... thì kệ cái tát/ bát sẹo/ lẹo vú/ bú đít/ lít nách/ jạch
tóc/ móc họng/ nọng thổ/ hổ jốn/ nọm nín/ mím ngực/ chực cắn/ nắn thẹn/ đẹn
kén/ nén xác... (Jờ Joạc)
rồi lại thế này:
Truồng lẹm
Em ghem tôi bằng Ghẹm
Bằng Thẹm
Bằng Cửa Ngửa
Em Them tôi bằng Cửa Ngửa
Buồng cửa ngửa
Em Ghem tôi bằng Trắng Ngửa
Bằng LÔNG
Em Hông tôi bằng MÔNG
Bằng Âm Cụ Nụ
(Con Trắng LA. 150-151)
Trần Ngọc Hiếu cho đây là lối viết bật âm của Trần Dần là một hành động mang tính chủ ý... Lối viết ấy đem lại cho người đọc một khoái
thú mà Phạm Thị Hoài gọi là, "sướng
nôm hiện đại" (LA. 150)
Khoái thú thì tuỳ loại người đọc. Nhưng
chủ ý của Trần Dần thì với những Thằng Thịt, Con Trắng, Con Ụt cọt Ịt... nó
"Trắng Ngửa" ra như thế này : "Tức là con nữ kỹ sư truồng nằm jữa xé sử ký jao cấu trên tôi và thằng
Truồng - ở các mông đít-ism lỗ ngực jây
truyền nách mặt lẹm cổ họng" (Jờ Joạc)
Có thể nói toàn bộ tư tưởng và văn
thơ của Trần Dần chơi thơ rồ chữ nằm
trong một câu gồm 33 chữ ấy. Dường như là Trần Dần mượn câu chữ để trả thù đời
giải toả nỗi uất hận và tự giam hãm trong bấy nhiêu năm trời. Chỗ này Phùng
Quán, Thanh Châu... cao hơn Trần Dần về nhân cách. Có thể Phùng Quán không tài
con âm con chữ bằng Trần Dần nhưng ông đã vượt qua những uất hận đau buồn cá
nhân, sống hết mình với cuộc đời, sống như Tuổi
thơ dữ dội, như Ba phút của sự thật.
Cụ Thanh Châu tự gác bút từ đạo đó nhưng không thù hận. Những năm cuối đời Cụ
còn bay từ thành phố Hồ Chí Minh ra dự Đại hội Nhà văn, tôi nhớ, ở Hội trường
Ba Đình năm ấy. Và cái trò chơi thơ vượt ngưỡng như Chân dung nhà văn Cụ cũng rất phản đối, mặc dù Xuân Sách là lớp đàn
em, là đồng hương bên ngoại, lại cùng họ Ngô (Xem Luận chiến văn chương. Sđd. Mục Tư
liệu về xuất bản Chân dung nhà văn). Trần Dần tài năng lắm. Nhưng xé sử ký rồi jao cấu ở các mông đít- ism thì
không còn gì có thể nói được nữa. Jao cấu
ở mông đít... thì là sự thường trong đám đồng tính nhưng Jao cấu ở các
mông đít-ism (các chủ nghĩa mông đít...) thì xung lực tinh thần qua trò
chơi đã trở thành năng lượng khủng khiếp phá vỡ cái hiện hữu...
Thầy trò tác giả Luận án tỏ ra tinh tường khi vận dụng Lý thuyết trò chơi... vào trường hợp
Trần Dần. Quả thật, như nói trên, những trò chơi thơ tự nhận là rác rưởi tha ma
nghĩa địa của nhóm Mở miệng đặt bên
cạnh Trần Dần thì đúng là đặt con báo gấm
bên cạnh con mèo hen. Như Bùi Chát
trong đoạn sau:
Hán Việt cao sang thanh khiết hơn
thuần Việt, tục
truyền là rứa. Có người
nọ, vì không muốn thơ
mình thấp cấp
khi đề cập đến chuyện
hứng tình, sau
nhiều ngày đắn đo suy
nghĩ, khứa ta
liền hạ bút: vào lúc
5 giờ sáng
mỗi ngày, tôi thường
bị nứng cái dương
vật (thay vì cặc) của
mình... túm lại,
những lúc như vậy:
tôi phải làm cái
mẹ gì trước bình
minh?
("Tính tình tinh: Bùi Chát. LA.
Trg 184)
Mặc dù Luận án giành nhiều trang cho Lê Đạt và nhóm Mở Miệng v.v... Nhưng như nói trên, chỉ một Trần Dần, bạn đọc đủ
hình dung được cái khuynh hướng trò chơi trong thơ Việt hiện đại nó như thế
nào. Mặt khác, thực hành thơ của nhóm Mở
Miệng mà Nhã Thuyên rất đề cao, chúng tôi đã nói đến trong bài Luận văn của Đỗ Thị Thoan (Luận chiến văn chương. Quyển Ba), nay
không nhắc lại.
Về sự chơi và trò chơi, nói lý
thuyết đến bao nhiêu cũng không thừa, dù có dẫn cổ kim đông tây đến thiên kinh
vạn quyển cũng thế. Nhưng chỉ cần nhớ:
Nghề chơi cũng lắm công phu. Ăn có nơi chơi có chốn cũng đủ.
Luận án Tiến sĩ phải theo đúng qui
định số trang số chữ, để chứng tỏ khả năng tư duy, diễn đạt tư tưởng... Chúng
tôi chú ý đến tư tưởng trung tâm của Luận
án, tức quan điểm của người nghiên
cứu như thế này: Những trò chơi này (trò chơi thơ) mang đậm dấu ấn cá nhân
của những tác giả tiên phong thể nghiệm với kỹ thuật hình thức tu từ độc đáo,
dị biệt. Song giá trị lớn nhất của chúng không đơn thuần nằm ở những phát kiến
hình thức, kỹ thuật; quan trọng hơn, chúng gợi ra những khả thể tồn tại khác của thơ, những cách thức thể nghiệm khác,
bất chấp những qui tắc tiền lập. Khuynh hướng trò chơi muốn phá vỡ những
khuôn hình bền vững của thể loại, mở đường cho sự đa dạng hoá các ý niệm, định
nghĩa về thơ nhưng cũng chính vì thế khiến
cho thơ đương đại trở nên bất định hơn bao giờ. Thường bất định dễ làm nảy sinh
bất an. Nhưng trong ngữ cảnh của thời đại hôm nay, khi con người dường như khó
có thể còn đủ ngây thơ để tin vào những tất định, sự bất định lại là cái duy
nhất con người có thể trải nghiệm. Cái bất định ấy, phải chăng, cũng chính là
biểu hiện đích thực của cái sống động? (L.A. Trg 191)
Từ trò chơi thơ đã tiềm nhập ngay
vào cuộc sống xã hội. Không còn tin vào cái tất định phải trải nghiệm cái bất
định. Cuộc sống bây giờ như thế đấy. Cho nên chức năng lật đổ, phá vỡ của chúng
(trò chơi) thì lặp đi lặp lại đến bất tận. Trò chơi là chiến lược, là tiến
trình và mục tiêu (PL.5)
Luận án này toát
lên tình trạng bất an bất định muốn chống lại, giải cái trung tâm chính thống
truyền thống, phá vỡ cái hiện hữu, đạp lên cái tiền lập... Nhưng để đi đến cái gì? Những người thực hiện Luận án đã không trả lời được, hoặc không muốn, mà ngầm hiểu: hẵng phá vỡ cái hiện hữu đi đã!
Đấy là tư tưởng nguy hại của Luận án này. Trong khi xã hội muốn hướng
hoạt động văn hoá, văn học vào xây dựng con người, xây dựng các quan hệ xã hội
theo hướng nhân văn Chân - Thiện - Mĩ thì Luận
án này lại khẳng định, đề cao khuyến khích xu hướng ngược lại: Phá vỡ tất
cả! Lật đổ và phá vỡ! Luận văn của
Nhã Thuyên đã là quá đáng lắm rồi. Đến Luận
án này thì không hiểu thực chất Khoa
Ngữ văn ĐHSPHN là gì? Rất mong được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo giải
thích cho.
Hà Nội
14-7-2015
Nguồn: Báo Văn Nghệ TPHCM