Cái bất cập lớn nhất trong phương
pháp học thuật của Giáo sư Trần Đình Sử là ở chỗ diễn giải lại. Đọc thiên kinh vạn quyển mà chỉ làm được cái việc diễn giải lại thì có khác gì đào, kép cứ
theo vở của thầy tuồng mà diễn giải lại.
Và Giáo sư Trần Đình Sử đã diễn giải lại, theo tôi, là rất sai, trường hợp lý thuyết ngoại biên của Bakhtin. Chỗ
này, Giáo sư Trần Đình Sử tỏ ra vào hàng kép
nhất mà diễn giải lại cái vở của Bakhtin thôi. Hoàn toàn không có tri thức
gì mới và càng không có sự sáng tạo nên khi vận dụng vào văn học Việt Nam hiện
nay, khá là sai lầm nguy hiểm, như sự hướng dẫn khoa học cho Trần Ngọc Hiếu,
với tư tưởng giải trung tâm, đề cao, cổ động cho cái ngoại biên, cho quá trình ngoại biên hóa đang diễn ra trong
văn học Việt Nam.
KIỂM DỊCH TRẦN ĐÌNH SỬ
(Tiếp
theo kỳ trước)
CHU GIANG
Về mọi phương diện, Luận án của Trần Ngọc Hiếu tệ hại nguy
hiểm hơn Luận văn của Đỗ Thị Thoan
rất nhiều. Tác hại xã hội của nó là ở cấp độ cao hơn. Song chúng tôi sẽ không
đề nghị huỷ bỏ Luận án thu hồi học
vị, xem xét trách nhiệm của người hướng dẫn khoa học và Hội đồng chấm luận văn.
Nếu làm thế, thì còn gì là khoa Ngữ
văn Đại học Sư phạm Hà Nội nữa. Vuốt má nể môi. Mía sâu có đốt nhà dột có nơi.
Thôi thì chỉ mong “các ông tí” nhanh nhanh lên để còn lau chùi bát đĩa đậy điệm
đồ ăn giống dựng. Nhà nghèo thực không dám phí phạm. Ấy là một lẽ. Còn một lẽ
cao sâu cảm động hơn là GS.TS Trần Đình Sử tuy thế, vẫn còn gắn bó với trung
tâm, với cái chính thống, với thể chế này lắm. Bởi Giáo sư vẫn tham dự vào Giải
thưởng hàng năm của Hội Nhà văn, năm 2014. Giáo sư lại kính tặng tác phẩm dự
giải cho nhà văn Dương Trọng Dật, ủy viên Hội đồng Lý luận phê bình Hội Nhà văn
Việt Nam để thêm phần hiểu biết tin cậy. Nhà văn Dương Trọng Dật người Bắc,
tỉnh Đông (Hải Dương) sau chiến tranh định cư ở TP. Hồ Chí Minh. Đúng là hữu
duyên thiên lý mới tương ngộ được như vậy. Tuy không được cái giải gì, nhưng
tấm lòng của Giáo sư đối với Hội ta (Chu Giang cũng là hội viên), với chế độ
ta, với nền văn học cách mạng - xã hội chủ nghĩa của chúng ta vẫn còn sâu nặng
lắm. Nghĩ mà xem. Mâm cao cỗ đầy. Nhà hàng sang trọng. Trống ngược kèn xuôi thiệp
mời trang trọng mà khách khứa không thèm đến thì có nhục không? Đằng này bữa
cơm rau muối nhưng nặng tình nặng nghĩa. Được lời như cởi tấm lòng. Chủ khách
một lòng thành thực, rượu với bia tuy ít vẫn thừa... Cho nên Hội ta tuy chưa
được cái Noben nào nhưng đã hơn ngàn lại hơn ngàn đang chờ vào, là người ta
trông vào Giáo sư đấy. Quí hóa lắm. Giải nào cho xứng. Trong các bài viết trước
đây, có điều gì làm cho Giáo sư không được vui lòng, mong Giáo sư mở lượng
khoan dung thì kẻ học trò này hân hạnh vô cùng. Từ nay, chỉ dám thưa với Giáo
sư những chỗ chưa được thông khi tiếp cận với tư tưởng của Giáo sư qua một khối
lượng trước tác thật là đồ sộ.
Nhìn vào danh mục Những tác phẩm chính của Giáo sư quả
thật là choáng ngợp. Trước một GS.TS. NGND hội viên Hội Nhà văn từ địa phương
đến quốc gia, tổng chủ biên, chủ biên, biên soạn, viết chung và dịch thuật biết
bao nhiêu là công trình... thì dám nói gì nữa chứ. Đọc đi ngắm lại, định thần
lại, mới thấy có một công trình biên soạn chung hay lắm, mà Giáo sư quên mất.
Xem trong Kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện
đại bản in lần thứ tư, năm 2010 cũng không thấy. Đó là cuốn “Một thời đại văn học mới” (NXB Văn học.
H. 1987), Giáo sư có bài hay lắm. Xin trích một đoạn: “Con người của nền văn
học đó (văn học cách mạng) không thể nào khác hơn là con người chính trị, con
người được nhận thức thể hiện trong bản chất giai cấp, trong các quan hệ của
đời sống muôn vẻ, gắn liền với chính trị và được đánh giá từ góc độ chính trị.
Đó là điểm cách tân quan trọng nhất, căn bản nhất của văn học ta cũng là đặc
điểm chung căn bản của văn học xã hội chủ nghĩa thế giới” (Một thời đại văn học mới. NXB Văn học, 1987, tr.46).
Tôi nói hay là nói đến cái giá trị
khoa học của nó. Không có bài luận của GS thì ngay bây giờ cho đến các đời sau
người ta không biết con người Việt Nam hồi ấy nó như thế nào. Làm sao mà cắt
nghĩa được những công việc long trời lở đất kinh thiên động địa đến nỗi các ông
Tây phải cuốn cờ xách túi ra về. Cái con người giai cấp con người chính trị mà
làm được như thế chẳng đáng là con người hay sao? Nói thật lòng với GS chứ bây
giờ tôi lại ước mong những con người chính trị đó sống lại đông thêm mạnh ra trăm triệu người cùng chung một
ý chí một niềm tin cùng hành động thì cái đám quan liêu tham nhũng buôn gian
bán lậu đạo chích đạo văn... còn đường nào đất nào mà hoành hành. Con người cá
nhân phong phú đa dạng cũng hay, ai ai cũng là hoa hậu hoàn vũ, ước mơ cho lá rau
má to bằng lá sen... thì cuộc đời đẹp làm sao! Nhưng mà cứ như hiện thời, con
người cá nhân phong phú đa dạng con người tự do tự chọn... nó làm cho gia đình
và xã hội nát như tương bần. Chẳng nói xa xôi cứ nói trong ngành giáo dục - đào
tạo, trong nhà trường bây giờ từ mầm non mẫu giáo đến đại học cao học siêu
học... thật biết bao nhiêu cái buồn lòng. Chưa đọc thông viết thạo đã phải chạy
điểm chạy lớp chạy trường. Lên nữa thì chạy bằng chạy cấp mua luận án bán luận
văn ngay nách tường Bộ học... Thầy chẳng theo được Di Tề. Học trò không biết
chuyện Tăng Sâm, Phạm Sư Mạnh... Lạnh nhạt với lý tưởng - ước mơ - nghĩa vụ,
thay các điển hình người tốt việc tốt bằng các thần tượng, các cảm giác mạnh...
đã đưa lớp trẻ đến đâu? Vụ thảm sát ở Bắc
Giang năm trước, lại Bình Dương
vừa rồi... man rợ khủng khiếp quá. Nhà trường và các thầy nên xem lại sự giáo
dục, sự truyền bá truyền thụ kiến thức tri thức cho học trò đi. Cổng trường
khắc câu Tiên học lễ... Học trò nó
bảo Tiên học phí... Bài Văn hóa và con người trong thời hội nhập...
in trên Văn nghệ Nghệ An, nay GS chọn
vào sách, là xác đáng, trúng cựa lắm. Tôi rất tán thành. Nhưng trong khung cảnh
xã hội như trên mà lại đề cao ngoại biên, đề cao, khuyến khích giải trung tâm,
giải chính thống, giải truyền thống, phá vỡ cái hiện hữu, cái tiền lập. Tất cả
đều đem ra làm vè, giễu nhại từ lãnh tụ anh hùng dân tộc danh nhân văn hóa cho
đến thuần phong mĩ tục... thì đưa xã hội đến đâu? Tự do sáng tạo mà giễu cợt
chớt nhả cá đối bằng đầu có giống Quát (Cao
Bá Quát)... có như Xương (Trần Tế
Xương)... (LA. 109) rồi diệt cả Lục Vân Tiên, cả cụ Chiểu (Đồ Chiểu), thơ chỉ
cốt vần vè mà không thành một chút nội dung nào lại có thể tôn vinh hay sao
(LA. 180)? Ấy là chỗ rất bất cập của Giáo sư. Nó chẳng xứng với một người làm
lý luận chuyên nghiệp, một nhà khoa học về đường lý luận (văn học) như Giáo sư
tự nhận.
Những bất cập của Giáo sư về đường
tri thức cụ thể nó nhiều lắm, thôi ta chẳng nói. Mà đi tìm nguyên nhân của nó. Đó chính là phương pháp tư duy, phương pháp
luận nghiên cứu khoa học của Giáo sư. Chỗ này cần làm rõ, không phải chỉ vì
Giáo sư, mà vì muôn ngàn Giáo sư trong tương lai. Giáo sư chẳng qua chỉ là cái
ví dụ cụ thể cái mẫu bệnh phẩm trong sự kiểm dịch mà thôi.
Nay xin kiểm dịch sơ qua quyển Trên đường biên của lý luận văn học. NXB
Văn học. H. 2014. Tác phẩm tham dự Giải thưởng hàng năm của Hội Nhà văn đã nói
trên.
Không rõ trong Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục. H. 2004, sự trước tác của
Giáo sư như thế nào, vì tôi chưa có hân hạnh được tiếp cận. Nhưng sau 10 năm
Giáo sư mới đưa ra cuốn Trên đường biên...
mà Giáo sư tự nhận Đây là cuốn sách của
một người làm lí luận... trong hành
trình tự vượt lên mình. (Lời nói đầu.
Viết ngày 10-6-2014 tại Hà Nội).
Cứ xem như thế thì sự trước tác ở
đây còn phải nghiêm cẩn hơn cả Tuyển tập...
(năm 2004). Là cái dịp tự duyệt lại mình tự vượt lên mình thì một ý tưởng, một
câu một chữ càng phải nên thận trọng, thực sự là mình tự vượt lên chứ không phải mình
tự tụt xuống. Cho nên xin thưa với Giáo sư ba điểm trong cuốn sách mới này:
một về thái độ học thuật. Một về phương pháp học thuật. Một về cụ thể học
thuật.
Xin được tuần tự.
- Về thái độ học thuật:
Giáo sư viết: Các ý kiến của tôi
chắc chắn khó tránh khỏi khuyết điểm, mâu thuẫn hoặc chưa chín. Đó cũng là chuyện thường tình. Đây là
câu cuối cùng trong Lời nói đầu.
Thế là giáo sư kiêu ngạo quá. Trịch
thượng quá. Xem thường khoa học, xem thường bạn đọc quá. Có khuyết điểm ư, có
chưa chín ư... đó là sự thường tình, là chuyện thường tình nhé. Ăn được thì ăn
xài được thì xài không thì bỏ đó nhé. Sống mới chả chín. Đây chỉ có thế. Nó là
chuyện thường tình xưa nay. Rách chuyện.
Thưa giáo sư, một cá nhân không
tránh khỏi được thiếu sót. Nó là thực tế. Như một qui luật. Vì cá nhân là một
người. Cái nhìn cái nghĩ của một người làm sao bao quát hết cả. Làm sao bằng
được muôn người. Cho nên nó là sự thường gặp. Nhưng không vì nó là sự thường mà
xem nó là thường tình, không tỏ ra cẩn trọng. Nên người xưa thường mở đầu bằng Phi lộ (lời dẫn trước), Lời thưa trước, Đôi lời này kia, và cuối
bài, cuối sách luôn tỏ ra khiêm nhường, thường dùng chữ cẩn chí, cẩn tự, lời cầu mong được chỉ giáo, được bổ chính...
Rằng “người viết tuy thế này thế kia, vẫn
không tránh khỏi thế này thế kia... Mong
được các bậc cao minh chỉ giáo cho...”.
Nói xa thì như thế, nói gần thì như nhà văn nhà giáo lão thành Phạm Toàn trong
lời giới thiệu cho Tập tiểu luận viết bằng tiếng Pháp của cụ Phạm Thượng Chi
quá cố, cũng dùng mấy chữ Phạm Toàn cẩn
tự ở cuối bài. Có đâu như Giáo sư, quẳng ra một câu Đó cũng là chuyện thường tình rồi chấm hết. Trong học thuật mà thái
độ như thế thì rất khó tự vượt mình, vì cái gót Asin nó còn nặng lắm. Người xưa
xem thói kiêu ngạo là căn bệnh tệ hại nhất của kẻ sĩ cũng là có lý lắm (Xem Danh ngôn Hán học. Trần Lê Nhân. NXB Văn
học. H. 2008). Bây giờ thì càng có lý.
- Về phương pháp học thuật:
Giáo sư viết: Tôi là người đã được
đào tạo nhiều năm trong môi trường lý thuyết cũ, bao nhiêu năm tuổi trẻ dành đọc các lý thuyết xơ cứng. May mà tự biết
tìm đọc các tinh hoa lí luận Liên Xô cũ của Mikhail Bakhtin, Dimitri
Likhachev, Jouri Lotman, tôi đã nhận thấy những hạn chế của lí thuyết Xô Viết
và tìm cách diễn giải lại, trước hết
cho bản thân mình, sau cung cấp cho bạn đọc tham khảo.
Tôi đã nhiều lần tham gia và chủ biên giáo trình lí luận cho các trường
đại học, đã cố gắng đưa vào các tri thức mới (Lời nói đầu. Trên đường biên... Sđd., tr.8).
Cái bất cập lớn nhất trong phương
pháp học thuật của Giáo sư là ở chỗ diễn
giải lại. Đọc thiên kinh vạn quyển mà chỉ làm được cái việc diễn giải lại thì có khác gì đào, kép cứ
theo vở của thầy tuồng mà diễn giải lại.
Và Giáo sư đã diễn giải lại, theo tôi, là rất sai, trường hợp lý thuyết ngoại biên của Bakhtin. Chỗ
này, Giáo sư tỏ ra vào hàng kép nhất
mà diễn giải lại cái vở của Bakhtin thôi. Hoàn toàn không có tri thức gì mới và
càng không có sự sáng tạo nên khi vận dụng vào văn học Việt Nam hiện nay, khá
là sai lầm nguy hiểm, như sự hướng dẫn khoa học cho Trần Ngọc Hiếu, với tư
tưởng giải trung tâm, đề cao, cổ động cho cái ngoại biên, cho quá trình ngoại biên hóa đang diễn ra trong
văn học Việt Nam.
Về lý thuyết ngoại biên của Bakhtin
là vấn đề cũng dài dòng văn tự. Nhưng cần phải đặt ra những vấn đề khi tiếp cận
với thuyết của Bakhtin.
Về tư cách học thuật của Bakhtin là
không hoặc chưa đáng tin cậy. Xem Ngô Tự Lập trên Lý luận phê bình văn học nghệ thuật - Tạp chí của Hội đồng LLPBVHNT
TW - số tháng 5-2015 thì Bakhtin có nhiều khả năng là một tay đại bịp. Tuy
nhiên, phải chờ đợi thông tin ở các chuyên gia văn học Nga. Biết đâu là ngược
lại. Nhưng các trích dẫn của Giáo sư về Bakhtin là chưa đáng tin cậy, thậm chí
có chỗ theo chúng tôi, là giáo sư đã diễn giải lại một cách ngô nghê, như câu
này: Theo Bakhtin, biên giới (đường biên, ranh giới, giới hạn, tiếp giáp, ngoại
biên) không phải là vùng khép kín, bất biến mà là nơi mở ra, tạo thành tính chất chưa hoàn thành của đời
sống và văn hóa (TĐB... tr.315). Thật là thấy người ăn cũng thò tay vào
bị... đời sống và văn hóa có bao giờ là hoàn thành nhỉ? Viết rồi dịch rồi diễn
giải lại một sự vô nghĩa, nó phí phạm quá. Trong động từ tiếng Nga chia ra thể
hoàn thành và chưa hoàn thành, thời quá khứ, hiện tại và tương lai. Từ
những ký ức của ngôn ngữ mẹ đẻ mà Bakhtin viết như thế, ấy là chuyện của ông
ấy. Nhưng khi đọc và diễn giải lại
cho người Việt, sang tiếng Việt, thì phải khác tiếng Nga chứ. Đời sống và văn hóa
mà hoàn thành thì thành đại nghĩa địa
rồi, còn gì phải bàn nữa chứ. Ấy, cái nô
lệ học thuật chữ nghĩa tuy thế cũng vui. Chứ cẩn tự như Phạm Toàn thì còn gì mà nói.
Nhưng vấn đề còn quan trọng hơn. Cần
phải xem Bakhtin đưa ra thuyết ngoại biên hóa trong hoàn cảnh như thế nào. Về
chủ quan - tác giả, tức Bakhtin, về khách quan, ngoại quan, là xã hội Xô viết,
cuộc sống Xô viết thời đó. Và mục đích của các trường phái phương Tây thời đó.
Theo Ngô Tự Lập thì Bakhtin là người
chống Mác quyết liệt từ đầu đến cuối. Cái giải trung tâm, ngoại biên hóa, chống
lại trung tâm, chính thống của thuyết ngoại biên là có nguồn cơn từ đó chăng? Và
phương Tây bốc Bakhtin lên như nhà bác học lớn của thời đại, nhà tư tưởng lớn
của thời đại, phải chăng, trước hết, và xuyên suốt, cuối cùng, vì Bakhtin là kẻ
không đội trời chung với chủ nghĩa Mác? Mà việc bốc thơm, tung hô Bakhtin ở
Việt Nam gần đây nó có cái hơi hướng đó không?
Nhưng mà qua sự diễn giải lại Bakhtin thì thấy thầy trò Giáo sư rất đáng buồn cười,
nhất là câu này “Mikhail Bakhtin quan niệm bản chất văn hóa nằm ở ngoại biên”
(Sđd., tr.314). “Lĩnh vực văn hóa không có nội địa, bởi vì toàn bộ nó nằm trên
đường biên...” (Sđd., tr.314). Rồi theo thầy, Giáo sư Trần viết: Tôi hình dung
lí thuyết văn học như một không gian, mà đường ranh giới của nó tiếp giáp với
các không gian lí thuyết khác. Mọi đổi thay lí thuyết đều diễn ra trên đường
ranh giới này. Mọi cố gắng của tôi cũng đều nằm trên đường ranh giới Cái gì đang ở biên có nghĩa là chưa vào tâm...
(Sđd., tr.9).
Giáo sư quả là một học trò rất vụng
về của Bakhtin. Trò mà như thế biết thầy làm sao! Văn hóa đâu phải ở các chợ
đường biên.
Để khỏi mất thì giờ của bạn đọc, xin
khái lược thế này: Thế giới vô cùng phong phú đa dạng nhưng có qui luật. Mỗi
một phạm vi lĩnh vực, một thực thể... có qui luật của nó. Khi nghiên cứu khoa
học phải tìm ra sự khác nhau giống nhau và quan trọng hơn là phạm trù này có
thể vận dụng được gì ở phạm trù kia, mà không thể thuyền đua thì lái cũng đua con cóc cũng nhảy con cua cũng bò... ấy
là về lí thuyết. Hiệu ứng ngoại biên mà Bakhtin vận dụng là của lí thuyết sinh
học. Ở vùng giáp ranh giữa hai môi sinh môi trường thì sinh vật phát triển cực
mạnh, cực phong phú. Cái đó cũng đúng mà cũng chưa hoàn toàn. Vùng nước lợ quả
là lắm thứ tôm cá. Nhưng nó chỉ nhiều chỉ lắm ở đấy. Cái đa dạng phong phú của
vùng giáp ranh (nước lợ) cũng có cái hay - như món cá song cá vược con nhệch
con nhạc chẳng hạn). Nhưng con cá ngừ đại dương con cá voi cá mập cũng có giá
của nó chứ. Cấu trúc của các hệ thống xã hội, về chính trị, hành chính, kinh
tế, văn hóa nghệ thuật... nó khác lắm. Không thể đem mô hình, lý thuyết đường
biên sinh học mà vận dụng vào được, mà hô hào giải trung tâm, ngoại biên hóa.
Bakhtin có động cơ mục đích của ông ta. Còn trong học thuật nói chung và ở Việt
Nam nói riêng, không thể nhắm mắt tụng theo Bakhtin được. Thôi không dài dòng
nữa. Mời Giáo sư vào chính khu rừng nhiệt đới - như Cúc Phương chẳng hạn, rồi
lại lên vùng giáp ranh như Sapa chẳng hạn, xem nó giống nhau khác nhau thế nào.
Xem sức sống ở đâu mạnh hơn, phong phú hơn. Rồi về Hà Nội, nhờ cái Hội trường
Viện văn chẳng hạn, phương chi nhiên hậu, ta hẵng bàn đến cái ngoại biên và
ngoại biên hóa.
Giáo sư tự nhận có mâu thuẫn là
đúng. Giáo sư dẫn giải Bakhtin rằng văn hóa không có nội địa, cũng không có
trung tâm, tất cả là ở ngoại biên. Nhưng xướng xuất lí thuyết, Giáo sư lại hàm
ý mong vào được Trung tâm vào được tâm: Cái gì đang ở biên có nghĩa là chưa vào
tâm... (Sđd., tr.9). Giáo sư ơi, ở tâm, ở trung tâm, nó có cái gì đâu, nó có gì
đâu mà mong vào! (Ấy là theo tinh thần tư tưởng của Bakhtin). Vả lại, một lần
mâu thuẫn thì thể tất được thịt da ai cũng là người, nhưng nhiều lần, và ở
những chỗ rất quan trọng thì thành ra anh hàng bán mâu rao thuẫn, cái gì cũng
đâm thủng, cũng giải được mà không có cái gì đâm thủng được giải hóa được...
- Về cụ thể học thuật:
Có nhiều, xin nêu một vài làm ví dụ.
Giáo sư viết:
“Tuy nhiên, truyền thống tư tưởng của chúng ta thiếu vắng
các cuộc tranh luận khoa học thực sự, vì truyền thống ấy coi trọng chữ “đồng”, “tam
giáo” rất khác biệt vẫn “đồng nguyên”. Do coi trọng chữ đồng cho nên xã hội,
văn hóa ít có biến động lớn, xã hội gần như dẫm chân tại chỗ, ít phát triển” (Sđd., tr.308).
Giáo sư không hiểu những đặc điểm
rất quan trọng của lịch sử chính trị và văn hóa của Việt Nam. Tranh luận khoa
học thực sự đúng là còn ít nhưng thiếu vắng thì không đâu. Hỏi các cụ Ngô Đức
Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Tô Ngọc Vân... xem. Hòa đồng tôn giáo là một tư tưởng
tích cực trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam. Ở ta không có kỳ thị mâu thuẫn
chiến tranh tôn giáo vì là như thế. Quí lắm! Sau này đến Tứ giáo (thêm Thiên
chúa giáo) vẫn đồng ở chỗ nguyên nên các giáo hiện tồn vẫn chung câu tốt đời đẹp đạo. Như một làng Xuân Phả
(Xuân Trường - Thọ Xuân - Thanh Hóa). Trong làng có chùa, có nhà thờ, có văn miếu, có Bái thờ (thờ Lê Thái Tổ). Đạo nhà ai nhà nấy thờ. Lại nói do coi
trọng chữ đồng cho nên xã hội, văn hóa ít có biến động lớn, xã hội gần như dẫm
chân tại chỗ, ít phát triển (!). Chỗ này mà dám biện luận với Giáo sư thì hóa
ra dạy chân dài vén áo. Nên xin mượn
lời một người đồng bào, ông Nguyễn Văn Trọng, viết: Đạo lý cương thường của Khổng Mạnh rõ ràng trói buộc con người... (Bàn về Tự do. NXB Tri thức. H. 2014, tr.264)
khi cuốn Bàn về Tự do của John Stuart
Mill công bố lần đầu ở Anh năm 1859 thì đến năm 1871 người Nhật đã dịch và in
hàng triệu bản (Sđd., tr.262). Trong khi đó Tự Đức trọn đời chỉ có hai lần ra
khỏi cung cấm còn thì tự trói mình trong đó với mấy trăm bà vợ và việc nước thì giao cho bề tôi của Khổng Mạnh
trước khi là bề tôi của mình như Phan Thanh Giản... Xã hội Việt Nam thời
phong kiến ít biến động, ít phát triển, dẫm chân tại chỗ không phải do trọng chữ đồng đâu, Giáo sư hiểu rất sai về vấn đề
rất lớn.
Định thôi, mà không đành không nỡ.
Thôi thì cho nó trót. Giáo sư viết: “Chân lý nằm trong đối thoại và chỉ qua đối
thoại mới được mọi người thừa nhận. Và ai có điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu,
học hỏi thì sẽ có điều kiện tiếp cận chân lý nhiều hơn người chỉ biết áp đặt
nhận định tuỳ tiện (Sđd., tr.309).
Chỗ này khó nói quá. Có điều kiện
học tập tìm hiểu nghiên cứu thông thạo ngoại ngữ như Giáo sư thì điều kiện tiếp
cận chân lý hẳn là hơn người nhiều lắm. Nhưng giáo sư nhầm. Tất cả các yếu tố,
điều kiện Giáo sư nói chỉ là một nửa của vấn đề, mà là nửa phụ, nửa lý thuyết
giấy tờ sách vở thôi. Thưa Giáo sư, chân
lý được kiểm nghiệm được khẳng định thừa nhận là trong thực tiễn, qua thực
tiễn. Qua đối thoại mà có được chân lý thì Giáo sư thua xa các chị em trên
chợ Đồng Xuân.
Có bạn đọc hỏi: Kỳ này không cấp thời kiến nghị... nữa à? Như kỳ
trước đã nói, vuốt má nể môi, chứ cạn tàu ráo máng... thì con em mình nó biết
học hành thi cử vào đâu? Sát nhất miêu cứu vạn thử. Vả lại, Khoa Ngữ văn Đại
học Sư phạm Hà Nội có truyền thống đáng kính đáng quí. Các thầy học của tôi từ
đấy mà ra. Phải nhớ ơn tôn kính bảo vệ chứ. Với lại, Khoa Ngữ văn ĐHSPHN hiện
tiền cũng còn nhiều thầy cô có lương tri lương năng, chứ đâu chỉ có cái cặp đôi
kép Vị trí bên lề... và Lý thuyết trò chơi...
Đã cặp đôi lại còn kép! Đúng thế. Vì
có những hai cặp đôi, chẳng kép là gì.
Có cái sự như thế thì thông tin đến
bạn đọc như thế. Còn thì tuỳ ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo, tuỳ nhà
trường ĐHSPHN, tuỳ Khoa Ngữ văn... Nhưng mà - nếu có lòng tự trọng - Giáo sư
nên trả lại trách nhiệm khoa học, uy tín và danh vọng Giáo sư Trưởng khoa, Nhà
giáo nhân dân... cho dư luận. Nếu không, công luận cũng có cách xử sự của công
luận. Từ tấm gương của Giáo sư, tôi nghĩ, thà làm đầu cái ti cai tí nhà mình còn hơn làm cái đuôi chín ngà cho
nhà BaKhờ BạcTin!
Kính sợ mong chờ đối thoại cho nó ra
chân lý, thưa Giáo sư!
Hà
Nội, 15-7-2015
Nguồn: Báo Văn Nghệ TPHCM