Lính trong truyện ngắn của Trần Kim Trắc tinh khôi như nắng sớm, không gợn chút tì vết mà lạ kỳ lại quá đỗi đời thường. “Người ta hay nghĩ về lính với những công thức, những mặc định. Đôi lúc chính vì điều này khiến hình ảnh của lính trong văn chương thường không linh động”. Hồi mới chập chững viết, ông lang thang ở vùng Tân Định, thấy nhiều hiệu may Âu phục thời trang giới thiệu na ná nhau, kiểu “Taylor tuyệt đẹp”, “Taylor tuyệt mỹ”… Duy có cửa hiệu đề: “Taylor dễ thương”. Chỉ với hai chữ “dễ thương” của ông chủ hiệu may đã giúp ông nảy sinh một ý niệm mới trong sáng tác. Đó là tập cách quan sát theo lối riêng, quan sát những chi tiết bình thường. Quan sát đó rồi lưu lại đó trong ký ức để khi cần lại lấy ra sử dụng. “Mình viết văn, thì phải lí lắc, phải ví đầu mình như quả chuông vậy. Cứ có ai gõ vào là tự nhiên lại vang tiếng ra”, ông cười.



Nhà văn Trần Kim Trắc: Ở ẩn thị thành

NGÔ KINH LUÂN

Tôi thưa với nhà văn Trần Kim Trắc: “Suốt hết tháng ngày đã qua, ông thương nhớ những người bạn nào nhất?”. Phải rất lâu sau, nhà văn mới trả lời: “Tôi nhớ Nguyễn Ngọc Tấn và Hoàng Việt. Hai người bạn của tôi, mất tiếc quá. Họ tài hoa lắm”. Tận thẳm sâu trong đôi mắt của người đã gần bước sang tuổi chín mươi, là cả một vùng ký ức mà nhỡ nhìn vào lại không nỡ khơi lên. Khói thuốc lá váng vất trong căn phòng kính trong suốt trên tầng một, thơm thơm. Phía dưới xa lố nhố nắng vàng đượm hơn rơm phơi, ngai ngái, buồn buồn.

1. Quãng độ dăm năm trước, ngày tôi còn trẻ, ngày căn hộ của nhà văn Trần Kim Trắc còn nằm trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, tôi có dịp hầu chuyện ông. Ngày đó, ông nói những gì tôi không nhớ rõ lắm, chỉ còn nhớ ông có khen nhà văn Trung Quốc Giả Bình Ao. Thời điểm này, tác phẩm của Giả Bình Ao được chuyển tải đến bạn đọc thông qua dịch giả Vũ Công Hoan rất duyên, từ “Phế đô” rồi cả “Hoài Niệm Sói”.
Bây giờ, căn nhà cũ đã đổi chủ, vợ chồng nhà văn về sinh sống trong căn hộ nhiều tầng, mỗi tầng là mỗi gia đình, đều cùng huyết thống. Căn nhà đẹp hơn căn nhà trước rất nhiều, sàn lót ván, sạch bong.
Vẫn thói quen cũ, ông vừa ngồi xuống đã đốt thuốc lá, hút vài hơi rồi để tự tàn. Ông nói, bây giờ ông sống mà như không sống. Chỉ từ căn phòng ngủ sang phòng đọc sách, ít tụ tập, ít bạn bè, chỉ nghĩ. Một kiểu ở ẩn, theo cách của riêng ông. Thật ra thì nhà văn Trần Kim Trắc đã ở ẩn từ lâu rồi, bởi họa hoằn lắm người ta mới thấy ông xuất hiện trên truyền thông, trò chuyện một chút về nghiệp viết lách. 
Dẫu rằng, truyện ngắn của Trần Kim Trắc luôn có vai trò riêng biệt mang nét đặc trưng của vùng đất Nam Bộ. Tôi đọc ông nhiều, thuộc từng chi tiết. Chi tiết cậu lính trẻ được chữa bệnh lác bằng a-xít trộn với nhớt xe dùng xơ dừa quết lên vết lác. Ban đầu, cậu lính trẻ còn cố ôm thân cây dừa chịu đựng, về sau rát quá cứ để nguyên thân đen lem luốc vậy mà chạy nhảy cho đỡ khó chịu. Nhảy chán, lao ùm xuống sông.
Chi tiết, hai cậu lính sau trận càn rút về thôn xóm cũ để lánh. Gặp cảnh xưa, một cậu lính thì ngủ, cậu lính còn lại tranh thủ “giã gạo” với cô thôn nữ quen. Vừa “giã gạo” cậu lính vừa tán đủ chuyện, từ đường hướng, tư tưởng cho đến chuyện cứ như tuyên huấn. Cô thôn nữ bịt miệng cậu lính, thủ thỉ: “Im đi, mà hưởng”.
Rồi chi tiết, anh y tá yêu cô sơn tràng. Cô sơn tràng cả đời chỉ biết xem phim, loại phim chiếu phục vụ đám đông. Anh y tá đưa cô xem kịch, cô về khoe: “Hôm nay, được người yêu cho đi xem phim có người đóng thật”. Anh y tá cưới cô sơn tràng, bạn bè ngăn dữ lắm vì cô sơn tràng đi rừng bị gai tre cào, mắt con nhìn trời con nhìn đất. Anh y tá cười cười, đáp: “Mấy ông lấy vợ chọn mặt, đêm nằm toàn ôm con cá diếc. Tôi chọn vợ chỉ chọn cái mình”.
Chi tiết, học trò già gặp thầy, thầy trò trò chuyện trên trời dưới đất. Cuối cùng học trò thưa: “Nhờ thầy dạy mà con nên người vì con luôn giữ nhân cách của mình”. Thầy kết bằng một câu tiếng Tây được Việt hóa: “Mất nhân cách là mất tất cả”.
Còn nhiều, nhiều lắm những chi tiết trong truyện ngắn của Trần Kim Trắc mà tôi nhớ. Văn của ông trong trẻo, hồn hậu mà ngẫu nhiên ám ảnh đến lạ kỳ.
Trưa ấy, ông ngồi kể lại cho tôi nghe những điều tôi đã đọc. Tự dưng tôi nghĩ, cuộc đời này thật kỳ lạ.

2. Ông là lính thuộc biên chế Tiểu đoàn 307, Tiểu đoàn anh hùng trứ danh với bài hát mà gần như trong cuộc liên hoan ca múa nào cũng đều được nghe. Ông không chỉ là lính thuộc biên chế của Tiểu đoàn này, ông còn giữ một vai trò quan trọng trong Tiểu đoàn. Tiểu đoàn có một tờ báo nội bộ, ông vừa biên tập bài vở cộng tác vừa sáng tác phục vụ lính.
Ông nói: “Lính dễ thương lắm, những cậu lính trẻ măng ôm súng ra, sống chết có sá gì, cứ vừa đi vừa cười tươi như hoa”.
Lính trong truyện ngắn của Trần Kim Trắc tinh khôi như nắng sớm, không gợn chút tì vết mà lạ kỳ lại quá đỗi đời thường.
“Người ta hay nghĩ về lính với những công thức, những mặc định. Đôi lúc chính vì điều này khiến hình ảnh của lính trong văn chương thường không linh động”, ông bảo đại khái vậy.
Hồi mới chập chững viết, ông lang thang ở vùng Tân Định, thấy nhiều hiệu may Âu phục thời trang giới thiệu na ná nhau, kiểu “Taylor tuyệt đẹp”, “Taylor tuyệt mỹ”… Duy có cửa hiệu đề: “Taylor dễ thương”. Chỉ với hai chữ “dễ thương” của ông chủ hiệu may đã giúp ông nảy sinh một ý niệm mới trong sáng tác. Đó là tập cách quan sát theo lối riêng, quan sát những chi tiết bình thường. Quan sát đó rồi lưu lại đó trong ký ức để khi cần lại lấy ra sử dụng. “Mình viết văn, thì phải lí lắc (nghĩa là linh hoạt, chữ lí lắc là chữ của nhà văn sử dụng), phải ví đầu mình như quả chuông vậy. Cứ có ai gõ vào là tự nhiên lại vang tiếng ra”, ông cười.
Ông ra Hà Nội tập kết, đợt 1954. Ông còn trẻ thời điểm ấy, ông còn rất nhiều hoài bão thời điểm ấy, ông còn nhiều dự định ở thời điểm ấy. Nhưng, như tôi vẫn thường viết, biến cố luôn xảy ra vào thời điểm mà chúng ta luôn cảm thấy an toàn nhất. Biến cố của đời ông cũng vậy, ông có kể tôi nghe với nhiều ái ngại, tôi nghe với nhiều ái ngại. Và tôi hứa, tôi sẽ không nhắc đến chi tiết này.
Ông được tổ chức phân công lên làm nghề rừng, lúc thì ở Tuyên Quang, khi thì ở Lào Cai. Tổ chức phân công thì ông làm thôi, tính ông sẵn vậy. Không kêu ca, không xét đoán, chỉ là hay dằn vặt bởi một hành động nông nổi thời trai trẻ nào đó.
Ông gia nhập đoàn người sơn tràng, hạ gỗ đóng bè chuyển về xuôi bán cho các công ty quốc doanh. Trên rừng ngày đó có loại gỗ đẹp lắm, nghĩ đến bạn bè ở Hà Nội còn thiếu thốn, ông nhờ người thợ đóng đồ mộc lưu động đóng cho cái giường với ý định mang về Hà Nội tặng bạn. Giường đóng xong, ông cột cẩn thận rồi đón tàu lửa về Hà Nội. Trên tàu, ông ngủ. Đến ga Yên Bái choàng dậy thì không thấy cái giường đâu, cứ tưởng đã mất. Hóa ra, anh nhân viên thuế vụ thấy gỗ đẹp sợ ông buôn lậu nên không nói không rằng xách mang vào bốt. Ông vào bốt tính giải thích thì tàu đã hú còi, không còn thời gian để trình bày với nhân viên thuế vụ, mà trễ tàu thì ông không đủ tiền mua vé khác. Đành thôi, về Hà Nội thăm bạn với hai bàn tay không.
Tính ông hay cười, giọng lại Nam Bộ rặt, khi kể đến đoạn này ông vẫn cười. Tôi nghe, cố cười theo mà tự dưng thấy xa xót. Tôi thương ông, thương món quà tặng bạn bất thành, thương cả cho những năm tháng khốn khó của nhà văn mà vốn dĩ tôi chỉ biết qua sách vở và lời kể.
Hết làm rừng, ông chuyển qua nuôi ong. Ông nuôi ong thành công đến mức được tán tụng là vua ong, ông có đến mấy trăm đàn ong, đệ tử theo học về vài chục người. Tổ chức đưa xe lên miền cao Tuyên Quang, dọn hết nhà cửa nồi niêu xoong chảo để đưa ông về xuôi để ông truyền bá kinh nghiệm nuôi ong. Khi mọi thứ đã chuẩn bị đâu vào đấy thì miền Nam giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà, non sông liền dải.

3. Ông đưa gia đình về lại Sài Gòn: “Ngày ấy, bác cực không?”, tôi hỏi. “Cũng không cực gì, mình có chút vốn dành dụm lúc nuôi ong mà”, nhà văn trả lời.
Ông có cửa hàng bán mật ong nhỏ nhỏ ở đường Nguyễn Thị Minh Khai, nơi tôi kể ở phần trên bài viết. Một hôm, nhà văn Nguyễn Khải đạp xe ngang ghé chơi. Ông biếu nhà văn Nguyễn Khải ít mật ong và quyển Ông Thiềm Thừ. Nhà văn Nguyễn Khải cảm ơn rồi từ tạ.
Mấy hôm sau, nhà văn Nguyễn Khải tìm lại nhà, gặp ông nói: “Anh Trắc, bao nhiêu năm rồi, bao nhiêu biến cố rồi mà sao anh vẫn thư thái, tự tại đến vậy. Tôi đọc văn ông không thấy ông oán thán điều gì”. Ông ngạc nhiên lắm, vì ông không nghĩ rằng nhà văn Nguyễn Khải lại đọc mình. Nhẽ rằng, ông vẫn còn nghĩ nhiều về ngày ông còn trẻ. Về sau, tập này của ông được tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm của ông được nhiều nhà xuất bản in lại, hình như là sau tặng thưởng này, nếu tôi nhớ không nhầm.
Tôi thưa với ông, những năm cuối của nhà văn Nguyễn Khải, tôi may mắn được hầu chuyện nhà văn ở nhà riêng trên đường Tôn Đản, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà văn Nguyễn Khải cũng như ông lúc này, đa phần dành thời gian trong ngày để tự chiêm nghiệm nhằm thấu thị cuộc đời. Có lúc, nhà văn Nguyễn Khải còn nghiên cứu triết học. Ông khẽ khàng: “Nhà văn Nguyễn Khải là một người tốt”.
Vui chuyện, tôi mạn phép so sánh cách sống của ông với thi sĩ Bàng Sĩ Nguyên, đều là tự di triết mệnh, đều là đứng ngoài mọi ồn ào để mình biết riêng mình, ta biết riêng ta. Vui chuyện, ông kể cho tôi nghe về những kỷ niệm với cố nhà văn Sơn Nam, với nhà văn Trang Thế Hy, với “phải múc nước mắm bằng cái gáo mù u, Trần Kim Trắc nha”.
“Mình bây giờ tuổi lớn quá rồi. Đi đâu con cháu cũng lo, phải đi theo. Mấy lần muốn về quê thăm lại chốn cũ mà ngại con cháu cực, với lại ngại luôn chuyện bà con hỏi bao nhiêu năm đã làm đến chức gì rồi”, ông nói vậy.
“Thưa bác, cháu nghĩ là chỉ với danh xưng nhà văn Trần Kim Trắc đã hơn vạn chức tước bổng lộc rồi, bác ngại gì nữa ạ”, tôi cười đỡ lời. Lúc này, ông cũng cười.