Giữa năm 1931, sau sáu tháng bị đình bản, có lẽ vì
loạt bài viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và bài tố cáo ông phủ Lâm Thao Đỗ Kim
Ngọc ăn hối lộ, Phụ Nữ Tân Văn tái bản và đẩy mạnh chủ trương đấu tranh cho nữ
quyền, cổ vũ lớp trẻ rèn luyện chữ quốc ngữ. Nguyễn Thị Manh Manh xuất hiện
trong thời kỳ này khi mới 17 tuổi. Có lẽ vì còn quá trẻ nên bà chỉ làm phóng
viên bình thường, thỉnh thoảng viết một bài về nữ quyền. Sau đó, khi mạnh mẽ ủng
hộ Thơ mới bà bắt đầu nổi tiếng với những cuộc diễn thuyết, những bài viết về
bình đẳng giới và thơ mới. Không chỉ ở Sài Gòn, bà còn đi diễn thuyết ở Huế, Hà
Nội, Hải Phòng, Nam Định...
NỮ PHÓNG VIÊN ĐẦU TIÊN CỦA LÀNG BÁO SÀI GÒN
TRẦN NHẬT VY
Khoảng giữa năm 1931, làng báo Sài Gòn xuất hiện một
nữ phóng viên chính hiệu ở tuần báo Phụ Nữ Tân Văn. Nữ phóng viên này là
ai vậy? Nói “nữ phóng viên chính hiệu” là bởi “trước đó ở Hà Nội cũng như Sài
Gòn người giữ mục phụ nữ hay viết bài về phụ nữ, mặc dù ký tên là “Thị nọ Thị
kia” nhưng đều là ký giả có râu” (Ngọa Long - 10 năm làng báo Sài Gòn, Đuốc Nhà
Nam số ra ngày 17-10-1969).
Đó
là Manh Manh nữ sĩ
Manh Manh nữ sĩ tên thật là Nguyễn Thị Kiêm (1914 -
2005), con ông huyện Nguyễn Đình Trị quê quán ở Gò Công. Ông Trị từng là chủ
huyện Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, nghị viên hội đồng thành phố chung “sổ” (liên
danh tranh cử) với giáo sư Nguyễn Văn Bá, chủ bút báo Công Luận thời Diệp Văn Kỳ,
Thần Chung. Ông Trị cũng là “bầu” của đội bóng đá Ngôi Sao Xanh và sau đó đội
Ngôi Sao Gia Định lừng lẫy một thời.
Bà học Trường Nữ trung học bản xứ (Collège des Jeune
Filles Annamites de Saigon, trường áo tím, Gia Long, nay là Nguyễn Thị Minh
Khai) đến tú tài rồi bước vào nghề báo. Ban đầu bà chỉ là phóng viên thường, viết
các mục nhỏ với bút hiệu YM, Nguyễn Văn MYM. Sau khi Phan Khôi đăng bài thơ
Tình già (Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932) thì tên tuổi bà sáng lên qua
bút danh Nguyễn Thị Manh Manh hoặc tên thật khi ủng hộ Thơ mới và cổ vũ cho nữ
quyền.
Giữa năm 1931, sau sáu tháng bị đình bản, có lẽ vì
loạt bài viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và bài tố cáo ông phủ Lâm Thao Đỗ Kim
Ngọc ăn hối lộ, Phụ Nữ Tân Văn tái bản và đẩy mạnh chủ trương đấu tranh cho nữ
quyền, cổ vũ lớp trẻ rèn luyện chữ quốc ngữ.
Bà Kiêm xuất hiện trong thời kỳ này khi mới 17 tuổi.
Có lẽ vì còn quá trẻ nên bà chỉ làm phóng viên bình thường, thỉnh thoảng viết một
bài về nữ quyền. Sau đó, khi mạnh mẽ ủng hộ Thơ mới bà bắt đầu nổi tiếng với những
cuộc diễn thuyết, những bài viết về bình đẳng giới và thơ mới. Không chỉ ở Sài
Gòn, bà còn đi diễn thuyết ở Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định... Thậm chí báo
Phụ Nữ Tân Văn còn mở hẳn mục Thơ mới bên cạnh mục Văn uyển đăng các loại thơ
cũ.
Trong số báo 228 ra ngày 14-12-1933, bà viết bài trả
lời ông Hoàng Tâm báo Đuốc Nhà Nam: “Vì có nhiều vấn đề đáng quan tâm hơn là
thơ nên chúng tôi hoãn lại việc đăng lên báo. Nay ông có nhắc đến sửa soạn ăn mừng
thắng trận của ông, tôi xin soạn một bài thơ mới của tôi viết cách nay hai
tháng nay đăng lên báo. Nếu ông có dư thời giờ và báo Đuốc Nhà Nam có thiếu
bài, ông cứ cho tôi hay, tôi sẽ đưa mấy bài Thơ mới cho ông đăng lên báo Đuốc
Nhà Nam và phê bình luôn thể”.
Diễn
thuyết vì nữ quyền
Còn cuộc diễn thuyết của bà ở Hội Khuyến học Sài Gòn
(SAMIPIC, tức Hội Nam kỳ trí đức thể dục, nay là số 606 Trần Hưng Đạo, quận 5),
Hoài Thanh - Hoài Chân ghi nhận trong Thi nhân Việt Nam: “Từ hai tháng trước,
hôm 26-7-1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn
Hội Khuyến học Sài Gòn thành lập đến bây giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn
gái lên diễn đàn và cũng lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết có đông người
nghe như thế” (Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn Học, Hà Nội
1988, trang 25).
Trong buổi diễn thuyết ấy, bà nói: “Muốn cho tình tứ
không vì khuôn khổ mà bị đẹt mất (không lớn lên nổi) thì rất cần phải có một lối
thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối thơ xưa nên gọi
là Thơ mới”. Và “chỉ mong lối Thơ mới được nhiều người để ý đến và nó có thể trở
nên một lối thơ thông dụng để tả một cách thiết thực, rõ ràng những thi cảm của
các nhà thi sĩ”. Thơ mới với sự cổ vũ của Nguyễn Thị Kiêm đã tạo ra một cuộc
tranh luận dài trên báo chí cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Không chỉ nói, bà còn
sáng tác Thơ mới, những bài Hai cô thiếu nữ, Viếng phòng vắng... để lại ấn tượng
mạnh mãi về sau.
Về nữ quyền, trong buổi nói chuyện ở Hội chợ phụ nữ
ngày 26-5-1932 tổ chức tại vườn Tao Đàn, bà nói: “Đối với những người như chúng
tôi đây, ngu mà muốn học cho khôn, dốt mà muốn học cho giỏi, không biết mỹ thuật
mà biết yêu mến mỹ thuật, không biết văn chương mà muốn cảm mến văn chương thì
Nữ lưu học hội thiệt là cần ích cho chúng tôi lắm”.
Tại Huế, đêm 3-5-1934, trong bài nói chuyện “Dư luận
nam giới với phụ nữ tân tiến”, bà nói: “Chủ nghĩa phụ nữ là làm thế nào để giải
phóng phụ nữ khỏi những lễ giáo hủ bại, binh vực quyền lợi cho phụ nữ, kiếm những
cách sinh hoạt cho chị em để sự sống của mình được hoàn toàn hơn, và nâng cao
trình độ trí thức của mình”.
Làm vậy là bởi khi ấy vẫn còn quan niệm: “Đến thế kỷ
thứ 20 đàn bà An Nam lại có nảy sanh một số người quái gở! Họ vượt ra khỏi buồng
the, chẳng theo lễ giáo cũ: họ cũng đi học đi làm như đàn ông. Họ tự do đi, đứng,
nói cười, ra giữa công chúng vợt banh, đá cầu, lập hội hè, đến chỗ đông mà
tranh cãi”. Tại hội quán Khai Trí Tiến Đức Hà Nội tối 8-9-1934 bà nói: “Đàn bà
tân tiến là đàn bà mới, biết đi theo trào lưu xã hội, theo thời đại văn minh hiện
chừ” và người đàn bà ấy chỉ “xin ngang hàng với đàn ông, xin được đồng một phẩm
giá làm người trong xã hội”.
Buổi nói chuyện tại Hà Nội của bà được báo chí Hà Nội
ghi nhận: “Tối hôm thứ bảy vừa rồi, cái lối cô Kiêm lên diễn đàn, công chúng đã
ồ ạt kéo đến hội quán phố Hàng Trống như nước chảy, lũ lượt bọn năm bọn ba, ông
có, bà có, trai có, gái có, đến nỗi mấy bác nhà quê đi đường ngơ ngác hỏi nhau:
họ đi xem hội gì đông thế?” (báo Đông Pháp). Tờ Ngọ Báo viết: “Trong nơi diễn
đàn, ngày thường lỏng chỏng mấy bàn tổ tôm điếm, coi rộng thênh thang, hôm nay
đà gấp đôi thế cũng chẳng đủ chỗ cho công chúng đứng, ngồi. Trên gác, dưới nhà,
không một chỗ hở...”(Phụ Nữ Tân Văn số 259 ngày 20-9-1934).
Sự thành công của bà Nguyễn Thị Kiêm đã tạo ra một
phong trào phụ nữ mới hết sức sôi nổi, thúc đẩy các bà tham gia nhiều hoạt động
xã hội ở Sài Gòn, Hà Nội.
Đáng tiếc, cuối năm 1934, tờ Phụ Nữ Tân Văn đình bản,
bà Kiêm mất chỗ dựa, phong trào cổ vũ Thơ mới và đấu tranh cho nữ quyền của bà
bị xẹp xuống. Và bà trở thành một nhà báo bình thường cộng tác với một số báo
đương thời. Sở trường của bà là phỏng vấn. Tuy vậy, bà cũng viết nhiều bài phê
bình, ghi chép...
Người thấp lùn, bộ tướng núc ních, mặt má miếng bầu,
môi nhọn như mỏ chim... đôi mắt sáng ngời, thông minh, ăn nói mau lẹ, gọn gàng,
duyên dáng. Đó là nhận xét của nhà báo Ngọa Long. Với bộ tướng ấy, có thể nói
bà Kiêm là “phụ nữ trời bắt xấu”. Tại buổi nói chuyện ở Hội Khuyến học Sài Gòn,
để cử tọa trong phòng nhìn thấy diễn giả, bà phải... đứng trên bàn để nói! Vì vậy,
trong làng báo Sài Gòn thập niên 1930, ai cũng coi bà như một đồng nghiệp nam.
Chỉ có một người nhìn bà là “phụ nữ” đó là nhà báo
Lư Khê Trương Văn Em, người sau này gá nghĩa với bà năm 1937. Nhưng họ sống với
nhau không lâu. Sau khi đứa con đầu lòng mất và bà không thể có con được nữa,
hai người thỏa thuận chia tay. Năm 1950, bà lấy chồng người Pháp và qua Pháp ở
cho đến ngày mất.
Đối với văn học Việt Nam bà cũng có những đóng góp
đáng kể, ít ra trong thể Thơ mới ở thập niên 1930. Thế nhưng hầu hết những ghi
nhận về văn thơ 1930 - 1945 đều lãng quên bà!