Gặp nhau những ngày
này mừng khôn xiết. Vui quá, cùng nhau nhắc đi nhắc lại từ “đã chiến thắng!”
“đã chiến thắng!” chứ không còn “sẽ...” nữa. Chúng tôi cùng nhau hai tay bợ
miệng làm loa hướng vào nhà dân kêu gọi “Hỡi đồng bào! Hôm nay bộ đội Giải
phóng tiến về tiếp quản chính quyền. Bà con hãy mau mau nổi dậy giúp đỡ quân
cách mạng trấn áp bọn tàn quân, ủng hộ chính quyền cách mạng!”. Không ngờ loa
miệng nối tiếp loa miệng truyền đi khắp nơi trong làng mạc, ngoài ruộng đồng.
Dân chúng tràn ra hai bên đường mỗi lúc một đông. Được biết trong đó có dân từ
các nơi, Sông Bé, Đồng Nai, Phước Long ... lánh đạn đến đây cả tuần rồi. Nhiều
bà con địa phương đang làm vườn, làm ruộng quần ống thấp ống cao cũng chạy ùa
lên đường. Họ bẻ hoa ôm theo hàng ôm tặng cho chiến sĩ Giải phóng, những quả khớm,
dứa vàng rộm mọng nước cũng được đem ra mời...
KỶ NIỆM KHÓ QUÊN VỀ NGÀY 30-4
TUYẾT SƯƠNG
Cuối
cùng rồi cũng đến ngày giành lấy chính quyền về tay nhân dân sau hai mươi mốt năm
trông đợi với bao hy sinh, gian khổ, ác liệt, đói cơm lạt muối mới có được. Theo
chỉ thị của Trung Ương, các địa phương
phải quán triệt nhiệm vụ cụ thể khi dứt tiếng súng, trước mắt là thành lập ngay
Ủy Ban Quân Quản Tỉnh, Thành. Kịp thời làm chủ tình
hình, trấn áp bọn tàn quân và bọn phản cách mạng. Trấn áp bọn du côn du đãng thừa
cơ lúc chính quyền ngụy không còn, chính quyền cách mạng chưa hình thành chúng
cướp bóc của cải tài sản nhân dân. Đồng thời liên lạc với cơ sở cách mạng để
kết hợp với chính quyền mới vận động quần chúng quản lý, giữ gìn tài sản Quốc
gia. Phát động quần chúng tố cáo, phát hiện bọn tề ấp, tàn quân đang ẩn nấu,
mật thám mật vụ địch cài lại, để tập trung cải tạo. Lập lại trật tự xã hội, ổn
định cuộc sống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Đó là
KIM CHỈ NAM trong giai đoạn này. Và cũng là giai đoạn với bao kỷ niệm mà tôi
khó quên.
ÁNH MẮT NGƯỜI CHẠY LOẠN
Cuối tháng 3 đầu tháng 4/1975, các đơn vị thuộc E.300 Tỉnh
Lâm Đồng (cũ) chiến trường Miền đông Nam bộ được lệnh tiến ra phía trước, chuẩn
bị tiếp thu, thành lập chính quyền mới. Cơ quan chúng tôi từ Đồi Bồ, khu trung tuyến đi dọc theo đường be - đường xe be chở gỗ, ra đường 14bis,
tiến sát bàn đạp, đóng quân tại ấp
Tân dân, huyện Di Linh, Lâm Đồng để nhanh chóng tiến vào tiếp thu chính quyền khi
có lệnh. Trong khi chờ ngày N giờ G. Tôi và anh Đức Thu (Sau này là giám đốc Sở
Nội Vụ Bà Rịa Vũng Tàu) cùng một số anh em nữa được phân công quay lại trung tuyến lấy máy móc, tài liệu quan
trọng phục vụ cho chiến dịch. Anh Thu mang cây súng ngắn K54 còn tôi cây
cac-pin, đuổi theo mãi mà không kịp toán đi trước. Có lẽ họ tưởng chỉ chừng ấy
người đi chứ không có tôi và anh Thu của bộ phận văn phòng và điện đài chăng?
Cũng có thể tại chúng tôi xuất phát chậm. Bởi anh Thu thì đợi tôi. Còn tôi gặp
sự cố thế này:
Khi tôi
khoát súng chuẩn bị đi thì thấy chị nuôi vét những hạt cơm sót lại trong cái
nồi lớn dùng để nấu cơm của đơn vị cho vào cái tô, lấy nồi đem đi vo gạo. Bỗng
xuất hiện người đàn bà trông lôi thôi lếch thết bế đứa bé hơn hai tuổi, cử chỉ
rụt rè, rồi nhìn chầm chầm vào tô cơm với ánh mắt như bị thôi miên. Đứa bé gầy
guộc lem luốc thì cố chùi người muốn tuột khỏi đôi tay để nhào tới tô cơm.
Nhưng chị nuôi không thấy nên bỏ đi làm công việc của mình. Tôi bước tới lấy tô
cơm đưa cho chị ta, nghĩ bụng, chắc là vợ con tàn binh chạy loạn bị đói khát, biết chúng tôi là “Việt cộng” phe
đối kháng với chồng mình nên chị ta sợ trả thù chăng?
Được biết khi bị mất Ban Mê Thuật, Kiến Đức,
ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn ở Gia Nghĩa, sân bay Liên Cơ tự động tan rã. Những
tiểu đoàn bảo an, biệt kích, dân vệ vv … tháo chạy hoảng loạn, một số tên đùm
túm vợ con theo. Chúng cắt rừng đi về hướng Di Linh, ra Quốc lộ 20 hòng chạy về
thủ phủ Sài Gòn.
Thật kỳ
lạ, khi tôi đưa tô cơm tới, họ không đỡ lấy cái tô mà tranh nhau bốc lia bốc
lịa bỏ vào miệng mình ngốn ngấu, không có ý nhường nhịn. Tôi phải dùng cả tay còn
lại đỡ cái tô không thì đã rơi xuống đất. Chỉ một loáng không còn những hạt cơm
đáng kể dính lại trong tô. Thế rồi chị ta tất tả bỏ chạy sau khi kịp để lại phía
tôi một cái nhìn thật khó tả, vừa biết ơn vừa rất sợ hãi… Ánh mắt ấy vẫn còn
nguyên trong tôi mỗi khi nhắc lại những kỷ niệm.
Bấy giờ
tôi thấy lòng mình quặn lại, thương cho hoàn cảnh khốn cùng của mẹ con họ. Khốn
cùng đến làm lạ, mẹ tranh ăn với con thơ, điều hiếm thấy ở tấm lòng người mẹ. Và
tôi nghĩ, cần phải cho họ thời gian để hiểu về con người cách mạng. Chừng ấy thay
vào ánh mắt sợ hãi kia bằng sự yêu quí kính trọng.
DÒNG SÔNG NHUỘM MÁU
Khi chúng tôi đi sâu vào vùng trung tuyến thì gặp năm lính VNCH đi
ngược chiều. Họ rất sơ, run bây bẩy nhưng không có ý trốn chạy, còn chìa tay ra
xin ăn. Trông họ thật thảm hại, chỉ còn mỗi cái quần rằn ri rách bươm, tay
không, chẳng súng đạn. Tuy rất căm thù bọn tay sai bán nước nhưng khi thấy hoàn
cảnh như thế thì lòng chúng tôi cũng mềm lại. Trong khi họ cùng nhau ngấu
nghiến xuất mì lát của tôi, chúng tôi thuyết phục họ nên quy hàng, đi cùng
chúng tôi để được đưa về trại tập trung của Quân Giải Phóng Miền Nam, sẽ được
hưởng chính sách khoan hồng của cách mạng. “Chính sách của chúng tôi là đánh kẻ
chạy đi chứ không đánh người chạy lại”. chúng tôi nói thế. Không biết họ tin
hay ngờ vực như người phụ nữ kia. Song chắc họ cũng biết núi rừng là lãnh địa
của chúng tôi. Và nếu chạy, chúng tôi sẽ nổ súng, cho dù có chạy thoát đi nữa
thì cũng bị lạc đường và chết đói. Cuối cùng số tàn binh chịu để chúng tôi dẫn
đi, giao cho tổ canh giữ tàn binh đầu hàng mà không phải cột trói chi cả. Đó là
lần đầu tiên tôi thấy dẫn giải tù binh mà không cột trói. Đến bến sông, tôi
ngồi chờ anh Thu và một du kích đưa họ đến nơi trung chuyển. Nơi này do đồng
chí Hoành phụ trách nên thường gọi “trạm ông Hoành”, từ đấy anh em lại dẫn họ
đến một địa điểm tập kết khác, sâu trong vùng căn cứ cách mạng hơn.
Tại sông Kênh Đạ, trong khi ngồi chờ anh Thu, tôi được
nghe kể và chứng kiến cảnh người chết thật là khủng khiếp.
Trên đường thỉnh thoảng tôi nghe những tiếng súng nổ “đốp!
đốp!” rời rạc từng viên một. Thì ra đó là tiếng súng của quân ta bắn bọn hỗn
hợp tàn quân ngoan cố không chịu buông súng bơi qua sông đầu hàng Quân Giải
Phóng. Đoàn quân hỗn hợp tìm đường tháo chạy này có cả quân thất trận ở tỉnh
Phước Long trước đó vài tháng. Số khác là do các tỉnh, thành, thị xã ở Tây
Nguyên được giải phóng, chúng bị cô lập hoàn toàn nên tự rã ngũ, mạnh ai nấy
tháo chạy, có người đem theo gia đình vợ con, cọng lại quân số có tới trung
đoàn chứ chẳng ít. Khi tới dòng sông Kênh Đạ chúng bị quân du kích chặn lại,
không cho qua sông. Lúc bấy giờ lực lượng ta đã dồn hết ra phía trước để tiến
vào giành chính quyền, hơn nữa đâu biết có chuyện xảy ra đột xuất thế này nên
không có quân trấn giữ ở đây. Ta chỉ có một nhóm người ở bên nầy sông, bắc loa
kêu gọi họ bỏ súng đầu hàng để được hưởng chính sách khoan hồng của cách mạng. Vì
ít người nên phải thay phiên nhau suốt ngày phổ biến đến rát cổ họng vài điểm
trong chính sách khoan hồng của ta đối với ngụy quân ngụy quyền đã bỏ súng đầu
hàng, cho họ thông suốt.
Sau đó ta kêu gọi ai chịu đầu hàng thì trút bỏ súng
đạn bơi qua sông. Ai không biết bơi có thể kết bè qua sông nhưng với điều kiện
không mang theo vũ khí. Nếu có mang theo bất cứ vũ khí gì ta sẽ không đảm bảo
tính mạng cho họ, và chỉ được qua hai, ba người một chuyến. Sợ chúng qua một
lúc nhiều tên, khi biết anh em ta lèo tèo có mấy người chúng sẽ cướp súng chống
lại.
Một số binh sĩ hiểu và tin chính sách khoan hồng của
ta, họ bỏ súng bơi qua. Song mấy tên sĩ quan ngoan cố không chịu đầu hàng, thấy
anh em binh sĩ bỏ súng qua sông, chúng ném lựu đạn, xả súng bắn chết họ giữa dòng.
Môt số tên cố tình mang vũ khí vượt sông, ý định chống cự rồi chạy thoát thân,
buộc lòng quân ta đành phải tỉa từng tên ngay giữa dòng nước, không để chúng
kịp lên bờ. Có những tên ngoan cố tận cùng, khi nghe “tiếng loa” tuyên truyền,
chúng nhằm mục tiêu mà bắn. Vì vậy quân ta không thể chủ quan, phải đào hầm cho
mình và cả cho những binh lính đã đầu hàng khi vừa được lên bờ mà ta chưa kịp
đưa đi. Ta chuẩn bị sẵn dây rừng, chứ lấy đâu ra dây thừng cho đủ, hễ tên nào
sang sông là ta trói ngay, cho ngồi dưới hầm, chừng được bảy tám tên, ta cho
người áp giải về “trạm ông Hoành”.
Nhiều binh sĩ thật tình muốn đầu hàng quân Giải Phóng,
nhưng không dám qua sông, sợ bọn sĩ quan ngoan cố ẩn núp bắn chết. Ta đoán được
điều đó nên kêu họ lưu ý: “Để bảo vệ bản thân và gia đình, anh em binh sĩ hãy
đoàn kết, tiêu diệt bọn ác ôn ngoan cố, sang sông về với cách mạng”. Những ngày
sau đó có những loạt súng tự khử giữa bọn chúng rồi quăng xác xuống sông. Nhưng
đông quá nên khó điểm mặt hết những tên sát hại anh em binh sĩ chịu về với cách
mạng. “Cái khó ló cái khôn” tự họ nẩy sinh sáng kiến, đoàn kết, bí mật bằng
cách cho hai, ba người bơi qua sông, nhóm đứng trên bờ chia nhau bí mật theo
dõi, thấy tên nào có hành động bồng súng lên ngắm hay rút lựu đạn, họ lập tức
nổ súng khử trước. Từ đó anh em binh sĩ mới mạnh dạn bơi qua sông về với cách
mạng.
Không có dụng cụ đào hố nên bọn tàn binh tuồn tất cả
các loại xác chết vì bệnh, chết do mâu thuẫn giết nhau, chết đói, chết do chống
đối, đầu hàng vv... xuống sông. Ngoài ra còn có xác chết của bọn ngoan cố mang
vũ khí qua sông bị ta bắn chết giữa giồng. Vì vậy, những ngày ấy con sông nhuộm
máu đỏ quạch. Xác chết trôi lềnh bềnh trên sông. Có những xác ruột gan vướng
vào rễ cây dọc hai bên bờ, nhiều xác gặp vũng nước xoáy, không trôi được dồn
vào một chỗ, trương phình nổi lềnh bềnh ngày này qua ngày khác, che kín mặt
nước cả một vùng.
Anh du kích vừa làm nhiệm vụ quan sát, canh chừng xem
có tàn quân nào ngoan cố mang súng qua
sông vừa kể cho tôi nghe câu chuyện mới lúc sáng gặp đoàn cán bộ từ trên “Khu” ,“ R” hành quân cấp tốc chỉ đạo
chiến dịch tiếp thu chính quyền thành phố Đà Lạt tỉnh Tuyên Đức (cũ) và thị xã
Bảo Lộc tỉnh lỵ Lâm Đồng. Anh kể:
“Họ nói đoàn
hành quân cả ngày lẫn đêm, leo đèo lội rừng, không được ngơi nghỉ. Lúc nào đói
thì dừng, nấu cơm ăn, đó cũng là giờ phút nghỉ ngơi. Ăn xong mỗi người tự vắt
cơm cho bữa tiếp theo. Mỗi tối anh em chỉ chợp mắt một tiếng rồi đánh thức nhau
lục tục đi tiếp. Hôm qua, họ đi cả ngày không gặp nước để nấu ăn, đến sẩm tối
bỗng nghe từ xa có tiếng thác đổ, anh em mừng quá, động viên nhau cố gắng đi
đến con sông đó để có nước nấu cơm và nghỉ một đêm cho lại sức. Mãi nửa đêm mới
đến nơi, thấy con sông rộng lớn, nước có vẽ rất sâu ai cũng thích, nghĩ bụng
“lát nữa xuống bơi tắm cho đã, bù mấy ngày không được tắm”. Thế rồi mỗi người
mỗi việc, làm chỗ mắc võng tạm, kiếm củi, dựng bếp, lặt mấy lá rau nhặt nhạnh
dọc đường, vo gạo nấu cơm... Xong xuôi, mọi người ngồi chồm hổm quây quần bên
bếp lửa sát bờ sông ăn cơm. Trời tối như mực, lửa bếp chập chờn anh em cứ việc
cho cơm canh vào ca Mỹ mà múc ăn trong cơn đói. Đang ăn giữa chừng có người
nói: “Nghe cơm canh có mùi tanh tanh”. Người khác đồng tình “Ừ, tôi cũng thấy
như vậy”. Rồi lại đoán, chắc mùi tanh của nước có phèn. Họ đâu ngờ...”
Anh du kích đang kể bỗng hỏi người đồng đội mà mắt vẫn
phóng qua phía bên kia bờ sông:
- Có nhóm mang súng phải không?
- Ừ, đúng rồi!”.
Trả lời như thế rồi anh bụm tay làm loa kêu lớn:
- Nhóm người mang súng, quay lại ngay! Không sẽ bị
bắn.
Những tên tàn binh khựng lại, rồi tiếp tục sải những
sải tay bướng bỉnh về phía trước. Tôi thấy nôn nao, mong sao nhóm tàn binh kia
quay lại vào bờ, trút bỏ vũ khí trước khi bơi qua sông. Nhưng không, họ sải tay
nhanh hơn về phía trước. Khi họ ra đến giữa sông thì từng phát súng một vang
lên, đầu đạn găm vào họ, bắn lên những vệt nước màu đỏ, tôi thấy lạnh xương
sống. Những sải tay kia không còn sải nữa mà trôi xuôi theo dòng nước nhuộm một
màu đỏ tươi. Xác định chắc chắn không còn cánh tay nào sải qua bờ bên đây nữa,
người du kích ngồi xuống, thảng nhiên kể tiếp:
“Sau khi cùng nhau xì xụp ăn hết mấy ăng-gô cơm, và nồi
canh lá bép, người tên Vi và người nữa tên Dũng tranh thủ cởi quần áo nhảy ùm xuống
sông, nhoài người đến vũng nước bình bình không chảy xiết để tắm. Thấy nước
lớn, ham quá Dũng bơi, lặn thỏa thích, rồi anh tò mò lặn thử xem sông sâu cỡ
nào, và cũng để thử sức mình. Hít một hơi không khí căng đầy hai lá phổi rồi nín
thở lặn sâu đến chạm đất, Dũng thầm nghĩ
“cùng hơi sâu đấy chứ” rồi anh
chùn gối nhún mạnh chân, chòi mình trồi lên mặt nước. Bỗng thấy đầu mình chạm
phải vật gì mềm mềm nhầy nhụa và nặng nặng bồng bềnh trên mặt nước. Dũng lách
đầu chen qua mớ nhầy nhựa, trồi lên khỏi mặt nước. Anh đưa tay vuốt mắt nhìn
xem vật gì. Mặt nước bàng bạc ánh lên thứ ánh sáng nhờ nhợ ma quái. Mắt anh lờ
mờ nhìn thấy vây quanh mình là những xác chết trương phình trong bộ quần áo rằn
ri, một số chỉ mỗi quần xà lỏn, nằm sấp có, ngửa có. Có xác ruột gan trồi ra
khỏi bụng, lòng thòng theo cái xác. Tất cả những thứ nhầy nhụa sợn người ấy cứ
bồng bềnh theo sóng nước cọ xát vào da thịt. Dũng hoảng loạn ré lên một tiếng
thất thanh. Vi tắm cách xa chỗ Dũng hơn chục mét, không biết chuyện gì, anh kêu
to “Gì thế? Dũng?” Làm mọi người ở trên bờ đã hoảng lại càng hoảng hơn.
Kêu vậy rồi Vi bơi gần lại chỗ có tiếng ré. Trong lúc
những người trên bờ chụp súng, bấm đèn lao ra sát mép nước chạy dọc theo bờ
sông. Mấy quầng tròn của đèn pin sáng choang quất qua quất lại chỗ có tiếng ré. Nhưng xa quá họ chưa kịp thấy
rõ những gì. Trong lúc Dũng điếng, hụp sâu dưới nước rồi bơi vô bờ, leo lên trong
tư thế “trần như nhộng”. Không chút e thẹn ngượng ngùng, Dũng đứng run như cầy
sấy, ngơ ngác, thần sắc biến đâu mất, để lại bộ mặt đầy vẻ mụ muội cõi trên.
“Cậu làm sao vậy hả? Dũng!” - Một người trong đoàn vừa
hỏi vừa tát cái “bốp!” vào mặt Dũng, khiến anh ta sực tỉnh. Rồi thấy mọi ánh
mắt đang soi vào mình, anh nhìn xuống giật thót, ớ lên một tiếng, hai tay chụp vội như sợ nó vỗ cánh bay đi, làm
ai cũng bụm miệng cười.
Vi cũng đã lên bờ, anh đang nép vào góc khuất để mặc
quần áo. Sau đó anh kể cho mọi người biết nguyên nhân khiến Dũng hoảng. Nhờ lúc
nãy Vi bơi tới gần và có mấy chiếc đèn pin sáng quắc của những người trên bờ đã
cho Vi thấy và biết chuyện gì đã xãy ra với Dũng, bây giờ thì cả nhóm đã tỏ tường.
Họ không ngủ lại đó nữa mà đi luôn. Con đường nhỏ như
sợi chỉ dài vô tận, chạy ngoằn ngoèo cập theo dòng sông. Và họ đã gặp anh em du
kích chúng tôi ở đây, hồi sáng”.
Tôi nghe kể mà cảm thấy ớn lạnh, rùng mình. Giờ nhắc
lại còn rợn người, nổi da gà.
TIẾN VÀO TIẾP QUẢN
CHÍNH QUYỀN
Các cơ quan thuộc E.300 được lệnh hành quân ra thị xã
Bảo Lộc, tỉnh lỵ Lâm Đồng để tiếp quản chính quyền.
Tỉnh nhà được giải phóng. Tin vui đến trong sự mong
đợi nhưng không sao khỏi bất ngờ, ai nấy mừng trào nước mắt, cứ như liều thuốc
bổ, làm cho sự vất vả, mệt nhọc của những ngày qua tan biến đâu hết. Ai nấy
trong lòng khắp khởi, vui phơi phới, bồn chồn khó tả, người nhẹ như được chắp
cánh, đi nhanh như bay về đích. Lúc này chúng tôi cứ nhao ra đường lớn, đường
nhựa láng bóng mà đi chứ không cần cắt rừng lội suối nữa. Hiên ngang mà đi,
không phải lo dưới đất địch phục kích, trên trời máy bay bỏ bom chi cả, nghe
sung sướng vô cùng. Ngoài những đơn vị thuộc E.300 còn có một số đơn vị lực lượng
vũ trang khác, cứ thế chúng tôi cùng nhau thẳng tiến.
Gặp nhau những ngày này mừng khôn xiết. Vui quá, cùng
nhau nhắc đi nhắc lại từ “đã chiến thắng!” “đã chiến thắng!” chứ không còn
“sẽ...” nữa. Chúng tôi cùng nhau hai tay bợ miệng làm loa hướng vào nhà dân kêu
gọi “Hỡi đồng bào! Hôm nay bộ đội Giải phóng tiến về tiếp quản chính quyền. Bà
con hãy mau mau nổi dậy giúp đỡ quân cách mạng trấn áp bọn tàn quân, ủng hộ chính
quyền cách mạng!”. Không ngờ loa miệng nối tiếp loa miệng truyền đi khắp nơi
trong làng mạc, ngoài ruộng đồng. Dân chúng tràn ra hai bên đường mỗi lúc một
đông. Được biết trong đó có dân từ các nơi, Sông Bé, Đồng Nai, Phước Long ...
lánh đạn đến đây cả tuần rồi. Nhiều bà con địa phương đang làm vườn, làm ruộng
quần ống thấp ống cao cũng chạy ùa lên đường. Họ bẻ hoa ôm theo hàng ôm tặng
cho chiến sĩ Giải phóng, những quả khớm, dứa vàng rộm mọng nước cũng được đem
ra mời. Những bà mẹ người dân tộc thiểu số chạy theo kêu, giọng lơ lớ: Chào an
Giải Phón! Chào an Giải Phón! (Chào anh Giải Phóng!) Họ tháo chiếc vòng đồng đeo
tay, đeo vào cho chiến sĩ Giải phóng ý “cầu mong mọi điều may mắn!” Nhiều chàng trai cô gái trẻ măng, quần ống
treo ống trễ, chân trần chưa kịp xỏ dép, cứ thế chạy theo quân Giải Phóng bắt
tay cười nói, vui như hội.
Khi đến huyện lỵ Di linh thì trời đã tối, có đơn vị bộ
đội ta trấn giữ nơi đây. Đêm đó đơn vị chúng tôi nằm tạm trên những chiếc bàn,
chiếc ghế học trò của một trường tiểu học. Đó là đêm đầu tiên chúng tôi rời
“chiếc võng kháng chiến” vì không có chỗ mắc võng. Không quen nên rất khó ngủ.
Tuy nhiên phần vì rạo rực niềm vui chiến thắng nên chẳng ai ngủ được. Tờ mờ
sáng hôm sau, khi những tia nắng hừng lên trên bầu trời thanh bình khiến ai nấy
đều tươi tắn, nụ cười luôn nở trên môi. Không ai bảo ai, tự dưng câu cửa miệng
buổi sáng gặp nhau ai cũng nói “Hòa bình rồi!”. Chúng tôi được xe GMC “chiến
lợi phẩm” chở về Bảo Lộc. Dọc theo quốc lộ 20, những chiếc GMC chở chúng tôi
đến đâu cũng được bà con đứng hai bên đường cầm trên tay lá cờ nửa xanh nửa đỏ
chính giữa ngôi sao vàng (cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) và ảnh Bác Hồ huơ
lên chào đón như chào đón người thân trở về. Niềm vui cứ thế nhân lên, phơi
phới, tràn ngập.
Đã bốn mươi năm rồi, giờ nhắc đến tôi còn cảm thấy rạo
rực , khắp khởi trong lòng.
Sau này tôi được biết những lá cờ, ảnh Bác Hồ mà bà
con tự hào giơ cao chào đón chúng tôi trong ngày chiến thắng, có cả những lá cờ
và ảnh Bác Hồ chỉ vì cất giấu nó mà người dân đã bị địch đánh đập, tù đày, thậm
chí có người phải mất mạng nhưng họ vẫn không giao nộp cho địch cái lá cờ - hồn
cốt của Tổ Quốc, của Dân Tộc mình.