Nền thơ miền Nam về mặt chính thức chấm dứt vào ngày
30 tháng 4, thực ra còn kéo dài lâu hơn, nhiều tháng, nhiều năm trong những
hoàn cảnh khác. Một số nhà thơ ở ngoài vẫn âm thầm viết, mặc dù tất nhiên không
được xuất bản. Một số nhà thơ bị bắt vào trại cải tạo, hay nhà giam, viết về
hoàn cảnh của mình: như Vũ Hoàng Chương, Cung Trầm Tưởng, Dương Kiền, Vương Đức
Lệ, Trần Dạ Từ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên. Những nhà thơ vượt thoát đến được
các trại tị nạn và các Đệ tam quốc gia: như Nguyên Sa, Du Tử Lê, Mai Thảo. Một
số nhà thơ vốn sinh sống ở hải ngoại vào lúc ấy tiếp tục lên tiếng: như Thích
Nhất Hạnh, mà công lao rất lớn trong việc cứu người vượt biển...
BỐN
MƯƠI NĂM THƠ HẢI NGOẠI
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Chương Một
THƠ
Ở NGOÀI ĐẤT NƯỚC
Sau nhiều năm không ngó ngàng tới văn chương, tôi đọc
bài thơ đầu trên bờ vịnh Songkhla, dưới ngọn đèn dầu. Ngoài xa, mặt biển đêm đen,
im lìm như mặt nạ của cơn cuồng nộ. Mười bốn ngày lênh đênh trên sóng, bốn lần
cướp biển, hai tháng trên một giàn khoan dầu Anh quốc. Trong dãy nhà nhỏ dựng bằng
tôn và gỗ ván ép, chứa hơn trăm người, từ dưới một chiếc chiếu cũ, người bạn tình
cờ tìm thấy tờ báo tiếng Việt quay ronéo từ trại tị nạn Hồng Kông, có lẽ một người
đi trước bỏ quên hay cố ý để lại, và đưa cho tôi.
Trước đó, những gì tôi học từ bé trôi tuột đâu mất cả.
Sau đêm ấy, tôi có dịp đọc thêm nhiều hơn, khi các báo gởi tặng từ khắp nơi bắt
đầu đến được những trại tị nạn Đông Nam Á. Một số bài không có tên tác giả,
không biết thơ viết trong nước hay ở hải ngoại, lúc nào, Nam hay Bắc, trong
hoàn cảnh ra sao, nhưng những niềm vui tâm linh quen thuộc ngày xưa trở về.
Lưu vong là hiện tượng lâu đời, nhưng lưu vong ra khỏi
đất nước mình, với số lượng lớn, lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều năm, như
sau 1975, là hiện tượng mới. Mới, còn vì các phương cách lưu vong: di tản, vượt biển, bám càng máy bay, bám mạn
thuyền, trèo tường, vượt rào, cuốc bộ, ra đi chính thức, ra đi bán chính thức, ra
đi có trật tự, ra đi mất trật tự, bảo lãnh vợ chồng thật, vợ chồng giả, du học
thật, du học giả, một dân tộc gồng gánh nhau dẫm đạp nhau nương tựa nhau ra đi.
Lưu vong được định nghĩa như sự tách rời khỏi quê
hương có tính cách bắt buộc vì lý do chính trị, tôn giáo, hay kinh tế. Đó là một tình trạng di dân không tự nguyện,
để phân biệt với di dân tình nguyện.
Tình trạng lưu vong có thể được xác định dựa trên các yếu tố tinh thần, bị phân
biệt hay ngược đãi, và như thế một người có thể lưu vong trên chính tổ quốc
mình. Lưu vong gắn với mất mát, xa lìa, thương tiếc, và mặt khác gắn với quá
trình hội nhập trên vùng đất mới. Tâm thức lưu vong và quá trình hội nhập là
hai khuôn mặt của cùng một tình cảnh. Trong khi hoài niệm là quá khứ, thương tiếc
là thụ động, thì lưu vong như một quá trình không phải bao giờ cũng bi đát. Ngược
lại mới đúng: trong khi thường xuyên ngoái về cố xứ, người ra đi cũng đủ thực tế
để nhìn xuống chân mình và đủ mơ mộng để nghĩ đến ngày mai tươi sáng trên vùng
đất mới. Cô đơn là hành trang của người vượt biển, vượt tường, nhưng trong hành
trang của họ không chỉ có chừng ấy, mà còn có hy vọng về tự do và thăng tiến,
có niềm mong đợi nhiều khi mỏi mòn từ người thân quê nhà, trong cảnh khốn cùng,
không thể ra đi như họ.
Hãy tưởng tượng ra em
ở một căn nhà lạ
mình em một ngôn ngữ
mình em một màu da
mình em một màu mắt
mình em một lệ nhòa
Hãy tưởng tượng ra em
ở nơi không định tới
Đó là đoạn mở đầu của bài thơ Hãy tưởng tượng ra em của Trần Mộng Tú, viết ngay sau tháng 4 năm
1975. Việc chọn dùng câu ngắn, có vần, lặp lại, làm cho bài thơ tựa ca khúc, đồng
thời như lời kể. Tác giả giữ được sự thăng bằng giữa xúc động và lý trí, giữa
ám ảnh quá khứ và cuộc sống hiện tại. Cuộc sống hiện tại có phải là một lựa chọn
may mắn không? Lưu vong có phải là một lựa chọn?
Hãy tưởng tượng ra em
ở nơi không định tới
Không định tới không có nghĩa là không muốn tới.
Rõ ràng là thơ của người nữ viết cho người nam,
chàng đâu đó, sống hay chết, tự do hay tù tội. Tình yêu của người nữ trên xứ sở
mới là sự phản kháng hai lần đối với cuộc đời, số phận của một người Việt lưu
vong và số phận của người phụ nữ đánh mất tình yêu. Bài thơ vừa độc thoại vừa đối
thoại, kêu gọi đáp ứng. Trong khi đó, từ một nơi khác, trên quê hương, nhưng ngoài
xã hội, một người đàn ông.
Đất
lạ, người ta sống thế nào?
Trong lòng có sáng những trăng sao,
Có buồn bã lúc mùa trăn trở,
Có xót thương người qua biển dâu?
Những câu thơ của Tô Thùy Yên tôi đọc trong năm
tháng xa lìa đã đánh thức, xô dạt, làm va đập trong tôi tình yêu thơ ca, tưởng
đã chết, tình yêu đất nước, tưởng đã vô nghĩa. Tình yêu đất nước?
Những câu thơ nhiều hình ảnh mà ít ẩn dụ. Nhà thơ
Canada Molly Peacock cho rằng, khi các xúc cảm dâng cao, nhà thơ có thể không kịp
dừng lại với các ẩn dụ, mà di chuyển về phía vận động của đời sống (1). Đối với
nhiều người, mặc dù không phải tất cả, sau năm 1975, căn cước một quốc gia bị
đánh mất. Căn cước cá nhân bị đánh mất. Ý thức tập thể trở nên hỗn loạn: điều
này xáo trộn các khái niệm vốn có của quê nhà. Sau một thời gian dài với những
trăn trở tìm kiếm, có tính nghệ thuật, triết học, nền văn học miền Nam, trong
đó có thơ, hình như bước dần tới giai đoạn cuối của những câu hỏi siêu hình. Những
năm 1970 các nhà thơ ngày càng tách rời khỏi đời sống, tự mình trở nên xa lạ trước
cuộc chiến máu đổ thịt rơi trước mắt: văn học miền Nam bế tắc. Những vấn đề xã
hội ngày càng cấp bách, chiến cuộc ngày càng lan rộng, thì hình như các nhà
thơ, trừ một vài trường hợp đặc biệt, đều có khuynh hướng từ chối nhập cuộc.
Cho đến khi mọi thứ bảo vệ họ sụp đổ.
Như thế nền thơ miền Nam về mặt chính thức chấm dứt
vào ngày 30 tháng 4, thực ra còn kéo dài lâu hơn, nhiều tháng, nhiều năm trong
những hoàn cảnh khác. Một số nhà thơ ở ngoài vẫn âm thầm viết, mặc dù tất nhiên
không được xuất bản. Một số nhà thơ bị bắt vào trại cải tạo, hay nhà giam, viết
về hoàn cảnh của mình: như Vũ Hoàng Chương, Cung Trầm Tưởng, Dương Kiền, Vương
Đức Lệ, Trần Dạ Từ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên. Những nhà thơ vượt thoát đến
được các trại tị nạn và các Đệ tam quốc gia: như Nguyên Sa, Du Tử Lê, Mai Thảo.
Một số nhà thơ vốn sinh sống ở hải ngoại vào lúc ấy tiếp tục lên tiếng: như Thích
Nhất Hạnh, mà công lao rất lớn trong việc cứu người vượt biển, Minh Đức Hoài
Trinh, Nh Tay Ngàn, Thi Vũ. Nh Tay Ngàn, với bài thơ dài dằng dặc Nỗi liên đen tối vô cùng, lang thang bên
trời Tây.
Rồi mùa thu rủ tôi đi xa
Tôi đi xa mãi tôi rồi
Nhằm đêm hoa rụng như ánh trăng
Tan mù mù trên miệt hải ngạn
Và lớp sương mốc đổ liên hồi
Tận viễn khơi những con thuyền sôi nổi
Lướt qua màn đe dọa khi ly hương
Giữa tôi và Liên hôm nay
Ánh trăng không thành như cơn huyễn mộng
Của tôi và Liên hôm nay
Khi mười hai năm xuống dần nói nhỏ
Một mùa thu trước Liên xa
Không còn gì nhớ lại nữa đâu
Những hàng sao im nguyên ngày ấy
Của con đường Trà Vinh sớm hôm
Chữ ngơ ngác, người mất quê hương như bị phụ tình. Đây
là giai đoạn được đặt tên khác nhau: thơ miền Nam nối dài, thơ hải ngoại giai
đoạn đầu. Loại thơ sau hạn kỳ sụp đổ, một thi
pháp của tan rã.
Lưu vong là một hiện tượng ngôn ngữ, cũng rắc rối
như một vấn nạn quốc tịch (2). Tôi nối kết, do đó tôi tồn tại. Tan rã là đứt mạch
các chuỗi nối kết. Tôi không còn thuộc về ai. Nhưng thơ lưu vong không phải chỉ
là thơ miền Nam nối dài. Từ trại tị nạn Hồng Kông, rất sớm, và sau bức tường Bá
Linh, công đoàn Đoàn Kết, cách mạng nhung Tiệp Khắc, và nhiều sự kiện chấn động
khác ở châu Âu, thơ và văn học hải ngoại còn được bổ sung bằng những cây viết
tài hoa ra đi từ miền Bắc, với những quá khứ có thể khác, tâm sự khác, và tất
nhiên, với văn phong khác: như Lâm Quang Mỹ, thơ của hội nhập, Thế Dũng, thơ của
phản kháng, Đỗ Quyên, thơ của hồn Việt viễn xứ, như Châu Hồng Thủy, Đỗ Quang
Nghĩa và nhiều người nữa.
Chữ lạ, ngang
tàng, Thế Dũng:
Dăm
ngôi mộ trong hồn. Hoa héo úa
Âm ti cười văng vẳng tiếng đa đoan
Mây như khói tóc ai chiều thu xõa
Liệm làm sao? Dĩ vãng chửa tro tàn!
Ngày
tháng mở giùm tôi từng ô cửa
Hốc tâm linh toang hoác một hang buồn
Tôi chưa chín nên tôi còn hăm hở
Hộc từng cơn! Thơ vỡ ngực ngậm hờn
Mới, thiết tha, phóng túng, Đỗ Quyên:
Chúng mình không có Vàng
không có Súng
không có Dây thòng lọng
không có cả Thuốc độc lẫn Thuốc mê
Chúng mình chỉ có Chữ
Chừng mực,
sâu xa, Lâm Quang Mỹ:
Trong vườn Sôpanh
khúc dạo đầu thánh thót
Từng giọt rơi rơi
đến chật cả không gian
Là tiếng nhạc
hay là tiếng khóc
Về sướng vui
hay đau khổ ngập tràn.
Đọc một nhà thơ là phát triển cảm giác gần gũi, thân
mật, như một tương giao trực tiếp. Cảm giác thân mật bắt đầu ở tiếng nói hay giọng
điệu. Tiếng nói của ai? Của nhân vật trong bài thơ. Việc tiếp nhận các tin tức,
sự thuật lại câu chuyện, nêu lên các nhận xét bao giờ cũng được tiếp nhận với sự
dè dặt nếu chúng đến từ người xa lạ, và bạn dễ dàng tin tưởng hơn nếu chúng phát
ra trong vòng thân mật. Thơ hải ngoại tập hợp nhiều cây viết khác nhau, không
có một nhóm nào là tiêu biểu. Họ sống rải rác, làm nhiều công việc, với những
xuất thân khác nhau, những tài năng khác nhau, chưa bao giờ được phân định rõ
ràng về vị trí và mức độ đóng góp của họ, trừ những nhà thơ thành danh từ trước
năm 1975 và mang theo quá khứ từ trong nước ra, hầu hết sau đó không viết được
hay viết ít đi nhiều. Nhưng đó là những nhà thơ chia sẻ chung hoàn cảnh tha
hương. Bất chấp những khuynh hướng phát triển nghệ thuật khác nhau, nền thơ hải
ngoại gần như chưa lúc nào hoàn toàn vượt ra khỏi cái bóng của cuộc chiến tranh
và các xung đột ý thức hệ ba mươi năm. Người ta chỉ có thể lẫn tránh một lúc.
Hay
tin mẹ mất con không khóc
Lệ chảy vào tim suối não nề
Con mẹ tha hương sầu trắng tóc
Ngọn
nào cho mẹ ngọn nào quê?
Hà Huyền Chi. Thơ Việt Nam xưa nay không kịp nói về
tình mẫu tử, nó chỉ kịp nói về chia ly trong tình mẫu tử. Thơ chưa kịp nói về
tình yêu, nó chỉ kịp nói về giọt lệ của tình yêu.
Bấm bụng rời nhau đầu Trăng Mật.
Chiến tranh. Nghe mới nặng nề sao!
Minh Huệ (3). Mang bản chất tự do và cá nhân, tiếp nối
truyền thống của các dòng thơ Nam, Bắc, tiền chiến, hậu chiến khác nhau, các
nhà thơ hải ngoại không phải là những kẻ tự nguyện trở thành tiếng nói xã hội
và chính trị: họ bị buộc phải rơi vào các tình huống ấy. Một nền thơ chịu nhiều
va chạm khốc liệt, cải tạo, tù đày, hoàn cảnh khốn khổ của những người ở lại những
năm ngay sau 1975, cảnh vượt biên, sự lưu vong, quá trình hội nhập ở quê hương
mới đầy khó khăn, một mặt đánh bật nhu cầu về văn chương qua một bên giữa những
người lưu vong đầu tiên, một mặt lại mang chúng trở lại, ngày càng sâu sắc hơn
trên trang viết của các nhà thơ mới, thế hệ nối tiếp. Với những chất liệu thơ
ca mới.
Chất liệu thơ ca được tạo nên không những bởi đời sống
hiện tại mà còn bởi ký ức, dĩ vãng. Tuy nhiên đó là một dĩ vãng được làm sống lại,
dĩ vãng sống lại ấy được nhào nặn theo ánh sáng của hiện tại và trở thành một
công cụ nghệ thuật. Có quan điểm cho rằng một bài thơ không nhất thiết phải
mang lại ý nghĩa mà chỉ cần là một đối tượng thẩm mỹ, nhưng không một bài thơ
giá trị nào lại không có nghĩa. Trong một bài thơ thành công, tức là hay, sự
yêu thích mà người đọc dành cho nó thường do vần điệu, hình ảnh, nhưng sự yêu
thích ấy chỉ tồn tại lâu dài bằng ý nghĩa.
Ý nghĩa của thơ lại phụ thuộc vào sự tiếp nhận của
người đọc, đến lượt sự tiếp nhận ấy chịu ảnh hưởng của quá khứ cá nhân và cộng
đồng. Cần chú ý tình trạng chia cắt sau chiến tranh, giữa người ở thành phố và
người lên rừng, giữa người cổ vũ đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc và người
không tin vào những chuyện hô hào ấy, thực ra đã khởi đầu từ rất sớm, những năm
bốn mươi thế kỷ trước, vẫn tiếp tục kéo dài xuyên suốt nhiều thế hệ, vẫn tiếp tục,
dù với cường độ có thể thuyên giảm, sự chia cắt văn hóa và sinh thái, và do đó
khả năng tiếp nhận, của người Việt hải ngoại ra làm nhiều hệ thống: những di
dân không tự nguyện, tức là lưu vong, và những di dân về sau, tự nguyện, mà quyền
lợi cụ thể gắn bó chặt chẽ hơn với các thiết chế trong nước, nhưng đó không phải
là sự phân biệt hoàn toàn, mà là sự đan xen nhau, tương tác nhau, làm phái sinh
giữa chúng các hệ thống giá trị khác.
Nền tảng khởi đầu, và đến nay vẫn là một trong các tâm
điểm, của thơ hải ngoại là ý niệm lưu vong. Lưu vong được hiểu là vượt ra ngoài
cương thổ, nhưng đó không phải chỉ là một phân định địa lý hay lịch sử. Đó là một
tình trạng đương thời và tức thời và ngay cả từ bên trong. Lưu vong kèm theo nó
ít nhất bốn khái niệm, bốn quá trình: lòng hoài niệm; quá trình chấn thương và sự
làm chứng cho một thời đại; sự hội nhập và các giao thoa; và sự đi tới, phát
triển, thăng tiến. Nguyên Sa, ở Hoa Kỳ, hoài niệm.
Nửa
khuya nàng đánh thức tôi dậy, nói dậy đi, dậy đi, giao thừa rồi. Tôi ngồi dậy.
Chúng tôi mặc quần áo mới. Chúng tôi thắp nhang. Chúng tôi ngồi uống trà với
nhau, ngồi tựa lưng vào nhau, hát cho nhau nghe bằng ánh sáng của những ngày mới
gặp nhau. Khi nàng quay đầu lại, tôi thấy mắt nàng đỏ hoe.
Chừng mực, dịu dàng, nén lại. Từ trong các trại cải
tạo trên khắp lãnh thổ Việt Nam, các trại tị nạn rải rác ở Đông Nam Á, các trung
tâm chuyển tiếp ở Hoa Kỳ và các nơi khác, các nhà thơ đã bắt đầu tạo lập một xứ
sở riêng của ngôn ngữ, một quê hương riêng của vần điệu. Ở ngoài dòng chính thống
trong nước, thơ vẫn cháy như ngọn lửa nhỏ, tro than âm ỉ nhưng liên tục, ngày này
sang ngày khác. Nếu cảm thức về trách nhiệm công dân lớn, thơ nghiêng về thời sự
chính trị, nếu cảm xúc cá nhân lớn, sẽ có thơ tình hoặc thơ trữ tình, nhưng tất
cả đều khởi đi một cảm giác thương xót, tiếc nuối, tái hồi phục, tái xây dựng.
Ngôn ngữ thơ thay vì xác lập và làm tăng cường các đề tài, thì ngược lại chỉ
làm chúng trở nên ngày càng dao động, đổi sắc, tạo nên không khí không bình an.
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và trên đường hãy nhớ hát quốc ca
ôi lâu quá không còn ai hát nữa
bài hát giờ cũng như một hồn ma
Du Tử Lê, tháng 7, năm 1977. Văn học lưu vong là văn
học chấn thương. Trong khi được nhường chỗ bởi cái tôi, sự mô tả người khác vẫn
phải nói lên tiếng nói của chủ thể. Sự chuyển dịch từ thơ ca truyền khẩu đến
thơ in trên giấy đến thơ viết trên máy điện toán và lưu truyền trên mạng đã
ngày càng song hành với sự dịch chuyển giữa cái tôi xã hội và cái tôi tâm tình,
vừa làm tăng quá trình xã hội hóa vừa thúc đẩy nội tâm hóa và do đó cô đơn hóa
con người. Thơ trữ tình chính trị tìm thấy chỗ đứng của nó như thế nào trong bối
cảnh ấy? Tôi cho rằng cần sử dụng đến khái niệm tiềm năng. Trong những hoàn cảnh
khó khăn hay bị hạn chế về một mặt nào đó, con người thường gác lại nhu cầu biểu
hiện, nhưng chỉ cần các hạn chế ấy được cởi bỏ, chúng lại có dịp bộc lộ. Trong
khi nhu cầu được bày tỏ cái tôi xúc cảm bị hạn chế ở miền Bắc thời chiến tranh,
vì những lý do nặng về xã hội, và cái tôi chính trị không có dịp phát triển ở
miền Nam, vì những lý do nặng về văn hóa, thì đến một lúc khi các hạn chế bị đập
vỡ, chúng lại được thể hiện ra, và thể hiện mạnh mẽ. Thơ trữ tình không chỉ là
thơ về cá nhân một người, mà bao giờ cũng là một chức năng xã hội, một nhu cầu
giao tiếp.
Chua chát, ngạo mạn, mà thực, rất người, như Dương
Kiền:
ngày
30 tháng ba
lót tót chạy về Phan Thiết
lót tót chạy về Sàigòn
cờ tướng vẫn bay oai hùng lẫm liệt
trên cột cờ Bộ Tư Lệnh
nhưng tướng ở đâu
bố ai biết ?
cứ chạy cái đã ra sao thì ra
kệ bà thằng nào không sợ chết
Lòng tin bị thử thách. Lòng tin là sự nương tựa của
người này vào người khác, lúc ấy đổ vỡ. Khi biết cách nhìn lại quá khứ đầy thất
vọng, thơ giúp vực dậy sự lành mạnh tinh thần. Những kẻ thất bại không có tính
hài hước sẽ bị lịch sử bẻ gãy mau lẹ. Tin tưởng hơn, hy vọng hơn, từ trên một chiếc tàu vớt người vượt
biển của tổ chức Y Sĩ Không Biên Giới (Médecins Sans
Frontières), năm 1988, nhà
thơ Trang Châu:
Một
chớm bình minh anh ra khơi
Trùng
dương bát ngát người mong người
Dang
tay ôm cả chân trời rộng
Sóng
vỗ thân tàu bọt biển bơi
Thơ
ca là sự phóng chiếu thế giới lý tưởng của con người vào ngôn ngữ, trình bày
các kinh nghiệm cá nhân được lặp đi lặp lại, trở nên điển hình, không những điển
hình mà còn là những gợi ý, những khích lệ về hành vi con người mang tính cộng
đồng. Vì vậy khi một cộng đồng có biến loạn, khi một dân tộc đứng trên bờ vực
thẳm hay rơi xuống vực thẳm, lịch sử lật sang trang, ngôn ngữ thơ ca biến đổi.
Trong khi trong nhiều năm thơ trữ tình ngày càng lấn át thơ tự sự, thì sau năm
1975 khuynh hướng tự sự và khuynh hướng xã hội ngày một rõ hơn. Mặt khác thơ trữ
tình cũng biến đổi, dung nạp trong nó nhiều khả năng để phản ánh đời sống tâm hồn
như một tấm gương của thời đại mình, một thế hệ bị tổn thất.
Con
ơi từ buổi cha đi ấy
Ðã lớn lên thêm mấy khúc đời
Con hột máu rơi trên đất cũ
Cha ở đây cũng hột máu rơi
(Nguyễn Bá Trạc)
Một cuộc đời không hoàn tất. Người Việt sống ở hải
ngoại không còn sở hữu quê hương nhưng cũng không hoàn toàn thuộc về đất nước định
cư. Thế hệ đầu tiên, và một phần thế hệ tiếp nối ngay sau đó, dịch chuyển ở giữa
một bên là quê hương bản quán không còn nữa và một bên là bờ bến mới hãy còn xa
lạ. Những người di dân miễn cưỡng này (4) tạo ra một tập thể riêng biệt, một
sinh quyển thứ ba.
Nếu đối với đất nước mới định cư họ có thể là gánh nặng,
là tệ nạn, là nỗi khó chịu, hay niềm hy vọng, hay tất cả những thứ ấy, thì đối
với bản quán, họ chỉ có thể là niềm hy vọng. Niềm hy vọng trước tiên là khả
năng mở toang các cánh cửa của sự thật. Như Solzhenitsyn đã nói trong diễn từ Nobel 1971: “Chúng ta không được quên rằng bạo lực không
và cũng không thể tồn tại dựa vào chính nó, nó gắn chặt với dối trá một cách không thể tách bạch
được. Giữa chúng có mối liên hệ tự
nhiên và hữu cơ: bạo lực chẳng có gì che đậy cho nó ngoại trừ dối trá, còn dối
trá thì không có gì duy trì được nó ngoại trừ bạo lực.” (5)
Những thay đổi trong bút pháp của các nhà thơ hải
ngoại, giao hòa giữa thơ trữ tình và thơ thế sự, làm nên một loại thơ có thể gọi
là thơ trữ tình – thế sự, có thể thấy rõ trong nhiều trường hợp. Năm 1977, rất sớm giữa chuỗi ngày luân
lạc, người Việt vừa khóc vừa cười trong thơ Cao Tần:
Mai
mốt anh về có thằng túm hỏi
Mày qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói mày hay ông thượng đẳng cu li
Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan
Như thế là cười trước khóc sau; tự trào ban ngày mà khóc
lặng lẽ ban đêm. Nhưng người Việt lưu vong phải mất hai mươi năm nữa để học
cách chỉ cười. Thản nhiên, dửng dưng, không cần khóc. Chẳng hạn, Đỗ Kh và những
nhà thơ cùng thời, trong nước và hải ngoại, và hiện nay ngày càng đông.
Anh
muốn chụp gì cũng được
Nhưng
mà em mỏi rồi làm ơn mau lên
Tới
chừng nào anh mới hết phim
Phim trong máy ảnh, nhưng hết phim cũng là cách nói
của nhiều người để chỉ sự kết thúc một giai đoạn lịch sử. Lưu vong là một tình
trạng tinh thần có thể xảy ra trên chính quê hương mình. Vì vậy, đối với người
tù sau này ra hải ngoại, tình trạng trước và sau ấy là liên lục, xuyên qua các biên cương lãnh thổ, và cũng thế, niềm
hy vọng của họ lặng lẽ nhưng mãnh liệt kéo qua thời gian, như Trần Dạ Từ trong
tình yêu:
Đó là một buổi sáng tháng giêng rực rỡ
Không thứ cờ quạt nào vấy nhơ nổi bầu trời
Không thứ chủ nghĩa nào bôi bẩn được trí nhớ
Đồi núi và em mặc chung áo nắng vàng
Suối nước và em đi chung từng bước chân
Giản dị thôi. Như ngày nào. Em tới
Tự chủ, triết lý. Người đi trong bóng tối không ngừng
cầm chặt sợi dây nối kết họ lại. Nhưng sợi dây ấy càng bền chặt, sự nối kết
càng vững chắc, khả năng đi lạc càng thấp, khả năng tìm ra ánh sáng thoát cảnh đêm
đen càng cao.
Có
những mối liên hệ trong xã hội vì quyền lợi ích kỷ, vật chất hoặc tinh thần, cá
nhân hoặc phe nhóm, vì mê lầm cuồng tín, bảo thủ vô minh. Đó là những lực liên
kết lỏng lẻo, tuy bề ngoài có vẻ gắn bó lâu dài, nhưng thật ra chỉ cần gặp thử
thách là gãy đổ lập tức. Có những mối liên hệ lành mạnh, vượt qua các lợi ích
trước mắt, các tâm lý a dua bầy đàn vốn đầy rẫy khắp nơi, nhờ vậy mà tồn tại vững
bền, thậm chí càng vững bền hơn qua thử thách. Các liên kết ấy tạo nên bởi hy vọng,
bởi lòng tin vào nền tự do không thể chết, bởi lòng chung thủy đối với các giá
trị tâm linh của dân tộc.
Sao em móng phượng
để dài
khiến ta đi khuất
còn sai
mộng về.
(Thi Vũ)
Lưu vong không phải là một tình trạng thay đổi lập tức
như tối chuyển qua sáng, mà là một quá trình. Đó là một kinh nghiệm chấn
thương, và vì vậy có thể kéo theo nó các hội chứng hậu chấn thương (6). Cuộc sống
tách rời bản quán có nghĩa là xa hoặc mất cha mẹ, anh chị em, bè bạn, láng giềng
quen thuộc. Một đứa trẻ mất mẹ từ khi còn nhỏ có thể rơi vào bệnh kém phát triển
thể chất và tinh thần, thậm chí có thể chết như trong các báo cáo của Spitz (7).
Tôi nhớ đến bài thơ Tưởng Niệm (8) của Giuseppe Ungaretti:
Tên anh là
Mohammed Sceab
Thuộc dòng dõi
Các tiểu vương
Tự tử
Vì mất quê hương
Anh yêu
Nước Pháp
Và đổi tên
Thành Marcel
Nhưng anh chẳng Pháp chút nào
Cũng không biết làm sao
Để chui vào, sống lại
Trong căn lều người di dân
Nơi bạn nghe tiếng cầu kinh
Vang vọng
Khi đang thưởng thức cà phê nóng
Người lưu vong mặc dù đã trưởng thành, đối với tổ quốc,
vẫn là một đứa trẻ.
Sự lưỡng lự giữa hai thế giới tạo ra tình trạng căng
thẳng. Sự có mặt và sự vắng mặt xen kẽ nhau, chiếm hữu nhau. Khi đọc chậm bài
thơ của Ungaretti, tôi hình dung bức chân dung nhỏ bé, câu chuyện kể, giai thoại,
hình dung thấy người lưu dân con cháu vương triều Hồi giáo, người cha già yếu,
đứa con lưu lạc, hình dung sự lẫn lộn và lúng túng của Marcel ở Paris. Tôi ngửi
mùi thơm từ tách cà phê trong tay chàng và lời cầu kinh vọng lại từ căn lều
trên sa mạc. Hay trên đồng cỏ. Và cái chết. Cái chết không phải kết thúc mà là lời
kinh cầu khác, hay lời cảnh tỉnh đối với các thế hệ.
Đi đi anh
có em sẽ chờ anh nơi bờ đê
mùa gió lên rơm rạ nở đầy trời
mảnh đất đã thấm đẫm oan khiên
vẫn thơm mùi lúa khoai mới gặt
em sẽ vốc lấy một nhúm và buộc chặt
vào bâu áo
làm bùa chú tặng anh
có anh linh của người nằm xuống
có bóng hình của kẻ đang sống
chỉ còn niềm tin này
là bùa hộ mệnh của chúng ta
Thơ
Lê Thị Huệ, 1984. Bạn ngửi được mùi thơm của nhành lúa mới. Trong những năm
tháng tối đen của đất nước, con người tập hợp nhau lại, đi tìm sức mạnh của
mình trong các nguồn cội dân tộc: văn hóa, thiên nhiên, tình yêu thơ ca. Mỗi
chi tiết bị bỏ qua trong đời thường, mỗi tổn thương trong chiến tranh, những sự
thật bị che dấu hay bị ruồng bỏ, đều trở thành nguồn cội của tinh thần mới. Bất
cứ ký ức nào về nền tự do trước đây, về cuộc chiến đấu vì quyền tự chủ và tự do
của họ, đều trở thành món gia tài quý báu của tập thể người ra đi. Ký ức trở thành
một di sản được thừa kế.
Hơn thế nữa, hai mươi năm tuy thật dài đối với một
cuộc chiến tranh, đối với sự chết chóc và khổ đau của con người, ở cả hai miền
Bắc và Nam, lại tỏ ra quá ngắn, quá hẹp cho sự phát triển của thơ ca. Hình như
thơ cần một thời gian dài hơn để cất lên tiếng nói mạnh mẽ của nó? Đó là lý do
vì sao sau năm 1975, ngay cả trong những hoàn cảnh bị đàn áp và tù đày, rất nhiều
nhà thơ vẫn tiếp tục viết. Và những người mới đến vùng đất tự do lại tiếp tục
nhận lấy ngọn đuốc từ tay người đi trước, không phải của hận thù mà của tình
yêu, không phải của ngụy tín mê lầm mà của sự tỉnh thức.
Trong một hội nghị về bệnh thấp khớp ở Canada gần
đây, có một báo cáo khoa học làm tôi chú ý. Các nghiên cứu nhân chủng học ở
loài vượn cổ đại cho thấy khi chúng sống thành đàn, hàng trăm con, bệnh khớp xảy
ra với tần suất cao hơn mấy chục lần so với bệnh ấy ở những con sống nhóm nhỏ
hoặc đơn độc. Kết luận: những con vật bị thấp khớp, trở nên tàn phế, chỉ có thể
sống sót khi quanh chúng có những thành viên thân cận. Sự bảo vệ cộng đồng kéo
dài tuổi thọ của chúng, do đó cho phép các bệnh mãn tính như thấp khớp có dịp lộ
ra. Điều sau đây, không có trong báo
cáo, là hệ luận: một cộng đồng phải có tình yêu lớn thế nào mới dành thời gian
và công sức để nuôi nấng và chăm sóc những thành viên già nua, ốm yếu, tàn tật.
Biển
sao sáng xuống lòng tối thẳm
Đụng cây neo lạnh buốt bên mình
Mới nhớ mình ngồi đó suốt đêm qua
Giữa nghìn con sóng tới
Giữa ngần ấy sóng xa
Giữa đất tận trời cùng giữa chỉ một mình ta
Nghĩ mãi tới một điều
Không bao giờ tỏ rõ
Là ngọn sóng ấy đã mất tăm về phía bên trong
Cửa khẩu một đêm nào
Và ngọn sóng này chảy theo người
Từ cửa khẩu ra khơi
Có phải là sóng của hai trời
Đập mỗi sóng một bờ bến khác?
Tiếng đập gần nghe ào ạt kín trùm quanh mạn
Tiếng kia xa đã nhỏ dần một cuối đáy thời gian
Mai
Thảo, ra biển. Khét mùi dầu mỡ loang loáng, vị muối mặn, mùi phân, nước tiểu, có
phải không, lũy tre xào xạc, tiếng súng tiểu liên trên đầu, sóng đập, máy gầm rú,
trẻ con khóc.
Trên
bàn làm việc của tôi có một tờ báo dành cho sức khỏe thanh thiếu niên, có tên
là “Me First”, tức là Tôi trước tiên. Chúng ta đang sống trong một thời đại của
kỹ thuật, của phát triển kinh tế bằng mọi giá, của bạo lực, các giá trị nhân loại
và dân tộc và thiên nhiên bị thử thách, của chủ nghĩa vị kỷ. Chúng ta được rao
giảng mỗi ngày rằng các cấu trúc cộng đồng không quan trọng bằng lợi ích cá
nhân, rằng bạn là một đơn vị độc lập, tự do cá nhân của bạn là trên hết. Tôi
không thuộc về ai cả, tôi chỉ thuộc về tôi. Hoặc cùng lắm là phe nhóm của tôi.
Tinh thần lưu vong chống lại điều này. Trong khi tự
do cá nhân và sự phát triển con người là thành tựu lớn lao mà nhân loại đạt được
những thế kỷ vừa qua, thì cái giá phải trả của nó không ai được quên: chỉ có
tôi là trước tiên, người khác là thứ yếu, cộng đồng là thứ yếu, sự liên kết giữa
các cá nhân là thứ yếu. Lưu vong, nếu là việc rời xa bản quán để tìm đến nơi tự
do, lại chính là một cố gắng làm ngược lại với hiện tượng tách rời. Lưu vong vì
tự do là cố gắng chống lại các trấn áp và chia rẽ, sự chia cắt con người khỏi
chỗ đứng của họ, mảnh đất của họ, tôn giáo của họ, nơi thờ phượng và tình yêu của
họ. Cảm giác thuộc về một tập thể là cảm giác tin cậy ấm áp, cần thiết cho sức
khoẻ thể chất, tâm thần và tinh thần. Trong khi con người tìm cách vượt qua các
biên cương, đi tìm Cái Khác, họ cũng mở rộng thêm khái niệm quê hương.
Khái niệm quê hương của người Việt sống xa đất nước
là nhân phẩm và khoan dung. Một cách lạ lùng, trong trạng thái tha hương, thơ tự
nguyện trở thành một phần của cuộc sống, kẻ ghi chép của lịch sử, khi lịch sử
không cần đến nó và thôi không tồn tại nữa. Thơ hải ngoại, vì tính chất tình
nguyện ấy, mang trong nó số phận và sứ mệnh của lưu vong. Số phận, nên nó là
thơ trữ tình, sứ mệnh, nên nó là thơ chính trị.
Ý nghĩa của lưu vong vượt ra ngoài khả năng trả lời
của một cá nhân, một tập thể, thậm chí của nhiều thế hệ. Chúng ta chỉ có thể trả
lời câu hỏi đó của đời sống, câu hỏi về ý
nghĩa, bằng chính đời sống của chúng ta, và vì thế, bằng cách chung thủy với
các lý do đã làm phát sinh quá trình lưu vong, và kéo theo nó, được nâng đỡ
trên vai nó, quá trình di dân, của chúng ta.
(Còn tiếp)
Chú thích:
(1) Molly
Peacock, The Best Canadian Poetry 2011, Prologue, Tightrope Books, 2011
(2) Caroly
Forché, Against Forgetting, Introduction, Norton, 1993
(3) http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/chia-tay-dau-trang-mat-tho-v-loi-bnh/
(4) Hiện tượng di dân mấy chục năm gần đây được
nghiên cứu sâu rộng, như trong lý thuyết hậu thuộc địa. Ở các nước có chính
sách đa văn hóa như Canada, việc nghiên cứu di dân về khía cạnh tâm thần học,
tâm lý học và xã hội học cũng phát triển mạnh, phù hợp với thời kỳ vượt biển,
vượt tường của người Việt Nam. Nhà nghiên cứu Edward Said trước đây quan niệm
hiện tượng di dân gồm ba loại: di dân bắt
buộc hay cưỡng bách (Forced Migration), di
dân miễn cưỡng hay lưỡng lự
(Reluctant Migration) và di dân tự nguyện
(Voluntary Migration) (Reperesentations of the Intellectual, The 1993 Reith
Lectures, London Vintage, 1994). Căn cứ trên quan điểm này, hầu hết những người
Việt ra đi trong thời kỳ đầu thuộc nhóm thứ hai, những người đến định cư sau
này thuộc nhóm thứ ba. Những người bị trục xuất vì lý do chính trị thuộc nhóm
thứ nhất, với số lượng ít hơn.
(5) Chân Phương:
http://hoiluan.vanhocvietnam.org/?p=159
(6) Rối loạn hậu chấn thương (Posttraumatic stress
Disorder) là một chẩn đoán tâm thần học; gồm có những tiêu chuẩn được liệt kê
trong các tài liệu y học, như tiếp xúc với cái chết hoặc sự đe dọa dẫn tới cái
chết, sự tổn thương hoặc hành hạ, các xâm phạm về tình dục:
Trực tiếp trải qua các sự kiện có tính sang thương
Chứng kiến tận mắt một sự kiện như thế xảy ra cho
người khác
Biết rằng có một sự kiện như thế đã xảy ra cho gia
đình hay bè bạn thân thiết
(American Psychiatric Association, Diagnostic
Criteria from DSM-5)
(7) Bác sĩ Rene Spitz sinh ở Vienna, mất ở Colorado,
có nguồn gốc Do Thái, sống nhiều năm ở Hungary, chịu ảnh hưởng của phân tâm học.
Ông có nhiều tác phẩm và những bộ phim nói về sự phát triển của trẻ em mất mẹ
và thiếu chăm sóc.
(8) Giuseppe Ungaretti, translated by Andrew
Frisardi
IN MEMORY OF
His name was
Mohammed Sceab
Descendant
of emirs and nomads
suicidal
because he had no homeland
left
He loved France
and changed his name
He was Marcel
but he wasn’t French
and he no longer knew how
to live
in his people’s tent
where you can hear the Koran
being chanted
while you savor coffee
And he didn’t know how
to set free
the song
of his desolation
I went with him
with the proprietress of the hotel
where we lived together
in Paris
from rue des Carmes number 5
a run-down sloping alley
He lies
in the graveyard at Ivry
a suburb that always
seems
like a day
a street market
breaks down
And perhaps only I
still know
he lived
Locvizza, September 30, 1916
Các tài liệu tham khảo:
-
Những
bài thơ do một số nhà thơ cung cấp. Nhân đây xin được bày tỏ lòng biết ơn của
tác giả đến tất cả.
-
Gaston
Bachelard, The poetics of space, Beacon, 1969
-
Mieke
Bal, Narratology, Introduction, University of Toronton, 1985
-
Thi
Vũ, Bốn mươi năm thơ Việt nam 1945- 1985, Quê Mẹ, 1993
-
Caroly
Forché, Against Forgetting, Norton, 1993
-
J.D.
Mc Clatchy, The vintage book of contemporary world poetry, Vintage, 1996
-
Hà
Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Giáo dục, 1998
-
Nhóm
Việt Thường, Tuyển tập thơ văn hải ngoại năm 2000, Văn Mới, 2000
-
26
Nhà thơ Việt Nam đương đại, Tân Thư, 2002
-
Nguyễn
Bùi Vợi, Quang Huy, Vũ Quần Phương, Thơ Việt Nam thế kỷ XX, Thơ trữ tình, Giáo
Dục, 2005
-
Jennifer
Ashton, From modernism to postmodernism, Cambridge Press, 2005
-
Nguyễn
Hưng Quốc, Thơ con cóc và những vấn đề khác, Văn Mới, 2006,
-
Agnieska
Gutthy, Exile and the narrative/ poetic imagination, Cambridge Scholars, 2010
-
Võ
Phiến, Văn học miền Nam tổng quan, Người Việt Books, 2014
-
Du
Tử Lê, Phác họa toàn cảnh 20 năm văn học nghệ thuật miền Nam, người Việt Books,
2014