Rất nhiều giai thoại về niềm say thơ của nhà thơ Tô Hà. Ví
dụ, gặp bạn thơ, Tô Hà mải nói chuyện thơ, quên cả giờ đón con ở nhà trẻ. Một
sớm, người vợ mua bát phở về mời nhà thơ ăn sáng, mải nói chuyện thơ với người
khách đến chơi, bát phở để nguội trương phềnh cho đến tận trưa. Gặp người bạn
thơ trên đường, Tô Hà hoan hỉ nói về bài thơ mới viết, mải chuyện, quên cả đèn
đỏ, công an phải tuýt còi. Anh có thể xắn tay áo sẵn sàng đọ sức với kẻ rèm
pha, lăng mạ một nhà thơ nào mà anh yêu quý. Còn khá đặc biệt nữa, là anh em ở
báo Người Hà Nội thường xuyên thấy Tô Hà say mê đọc thơ, nói chuyện thơ thay
bữa ăn trưa.
TÔ HÀ CÒN CÁI BÓNG NƠI ANH NGỒI VIẾT
VŨ TỪ TRANG
Mỗi lần
đi qua tòa nhà 19 Hàng Buồm, trụ sở Hội nhà văn Hà Nội, tôi lại chợt nghĩ nhà
thơ Tô Hà vẫn đang ở trong đó. Có thể anh đứng trao đổi cùng bạn viết về một
cuốn sách nào mới ra. Hoặc anh ngồi lặng lẽ đâu đó, để sửa lại câu thơ trong
bài thơ anh viết dở dang.
Tuổi
thơ, nhà thơ Tô Hà sống cùng cha mẹ ở Hải Phòng. Còn quê của anh, lại là làng
Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội. Đấy là quê của thi hào Nguyễn Trãi, nhưng làng có
nghề tiện gỗ nổi tiếng tự lâu đời. Chả biết cái bàn tiện gỗ thủ công đạp chân
xè xè và phoi gỗ tiện bay mù mịt có ám ảnh tuổi thơ của Tô Hà không, chứ có lần
anh nói, nếu không đi làm báo, viết văn làm thơ, thì anh có thể trở thành một
tay thợ tiện gỗ cao thủ của làng.
Tất
nhiên, lớn lên, anh không theo nghề tiện gỗ, mà lên Hà Nội học, để gắn với
nghiệp chữ nghĩa. Mộng văn chương anh đeo đuổi từ thưở thiếu thời. Ngay từ thời
còn ngồi học trong nhà trường phổ thông, anh đã có thơ in báo. Mà bài thơ ấy,
anh lại ký tên mình ghép với tên một cô bạn gái. Cô bạn gái này, nay cũng là
nhà văn có danh vị trên văn đàn nước nhà. Hơn ba mươi năm gắn với nghiệp chữ
nghĩa, đã từng chuyển công tác từ cơ quan này cơ quan kia, nhưng nhà thơ Tô Hà
gắn bó với Hội văn nghệ Hà Nội lâu hơn cả. Đã nhiều năm, anh biên tập, rồi làm
trưởng phòng biên tập của báo Người Hà Nội. Thế hệ anh em cầm bút ở Hà Nội,
giai đoạn chống Mỹ cứu nước, thì ai cũng biết Tô Hà. Anh là người nồng nhiệt
với bạn bè, với các cộng tác viên của báo. Và đặc biệt, niềm say mê thơ, thì
hình như ít người sánh bằng.
Thời làm
biên tập báo Người Hà Nội, hễ bất kỳ một nhà thơ, người yêu thơ nào đến tòa
soạn, gặp anh, thì chuyện thơ không thể dễ dứt ra được. Chuyện đời, chuyện xã
hội, anh như người ngu ngơ, nhưng hễ nói đến thơ, anh bỗng trở thành người tỉnh
táo, thông tuệ và đam mê lạ kỳ. Thơ anh sớm định hình phong cách riêng. Tuyển
thơ “Sức mới”, “Thơ chống Mỹ cứu nước, 1965-1967” do Nhà xuất bản Văn Học ấn
hành những năm đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ, đều có in thơ của Tô Hà. Giai
đoạn đó, ai được in thơ trong các tập thơ này, là niềm vinh dự lớn và vị thế
thơ ca đã như được khẳng định. Nhà thơ Chế Lan Viên, người tuyển chọn và viết
lời giới thiệu tập thơ này, đã không dè dặt khi khen ngợi bài thơ “Chuyện không
có trong thư” của Tô Hà.
Phút nhẹ
nhàng đậu xuống góc phong thư
Là phút
con tem bắt đầu có cánh...
Có thể bây
giờ, người đọc thấy câu thơ tả thực, có phần thô sơ ấy, nhưng ở thời điểm bài
thơ công bố trên báo, đã làm bao anh em cầm bút trẻ xôn xao bàn tán, với một
giọng điệu thơ hiện thực mới mẻ. Bài thơ nói về nỗi hy sinh vất vả và lặng lẽ
của người bưu chính thời chiến tranh khốc liệt. Đấy là thời kỳ Tô Hà và Nguyễn
Mỹ rất thân nhau. Rồi họ cùng làm việc ở một nhà xuất bản. Khi ấy Tô Hà và
Nguyễn Mỹ còn rất trẻ, họ như cặp bài trùng, làm việc cùng nhau, ăn ngủ cùng
nhau. Ngày ấy, Nguyễn Mỹ đã có những bài thơ tình đắm say. Tôi nhớ loáng
thoáng, anh viết: nắng rót trên đường nghe reo như tiếng chuông. Thơ ca, làm
hiện thực lung linh, huyền ảo. Rồi anh thật nổi tiếng với bài thơ “Cuộc chia ly
màu đỏ”. Cái bếp tập thể Vân Hồ khi ấy là nơi gặp gỡ của những người sống tập
thể, đa phần chưa có gia đình. Những người mua vé ăn cơm bếp ăn Vân Hồ ngày đó,
chiều chiều thường chứng kiến cảnh hai chàng trai vừa ăn cơm, vừa tranh giành
phân tích về một câu thơ hay của bạn bè hoặc chính họ viết ra. Có mấy cô gái
trẻ cùng ăn bếp ăn tập thể đó thầm mê đắm hai chàng trai, vì say thơ phú của
họ. Ngày đó, vị thế nhà thơ rất được đề cao. Đài tiếng nói Việt Nam, tuầnânhf hai
buổi tiếng thơ. Hễ đến giờ phát tiếng thơ, nhiều người đi trên đường liền dừng
lại bên cột điện có mắc chiếc loa công cộng, để lắng nghe các nghệ sỹ ngâm thơ.
Thơ ca, khi đó như một thánh địa. Vì thế, hai nhà thơ trẻ kia dù chưa phải quá nổi
tiếng gì, nhưng đã được nhiều người quý trọng lắm. Người làm thơ giữa xã hội tôn
thờ thơ như thế, hỏi làm sao chả cố gắng dốc hết cảm xúc mình vào những vần thơ
chứa chất yêu thương?
Tô Hà
càng chộn rộn, khi người bạn thân là Nguyễn Mỹ khoác ba lô vào chiến trường.
Khi ấy, Tô Hà khát khao ra trận theo bạn, nhưng công việc cơ quan yêu cầu anh ở
lại. Đấy là những ngày vô cùng hồi hộp khi chờ đợi và nhận được những lá thư
của người bạn từ chiến trường gửi về. Những mẩu chuyện ngoài chiến trường,
những vần thơ bạn mới viết còn nồng đặc khói bom, khói thuốc súng như thôi thúc
Tô Hà nhiều hơn. Thưở sinh thời, Tô Hà đã từng thốt lên, đó là những ngày rừng
rực tâm huyết với đất nước của một thế hệ cầm bút. Khi chuyển sang làm việc ở
báo Người Hà Nội, thửơ ban đầu là tạp chí Sáng tác Hà Nội, Tô Hà sốt sắng đi
kiếm tìm những vần thơ mới của bạn bè viết từ chiến trường gửi ra, anh muốn bạn
đọc được đọc những vần thơ mới nhất, nóng hổi nhất của bạn bè anh cầm súng cầm
bút ngoài chiến trường.
Một dạo,
anh em viết ở Hà Nội, rất nể trọng bộ ba “Hà-Thông-Phương”, họ chơi thân với
nhau và cổ súy nhau sáng tác. Tô Hà ngày ấy, đã từng làm biên tập của cơ quan
xuất bản, nên tỏ rõ tư chất cán bộ lắm. Trúc Thông thì đang là lính nghĩa vụ,
nhưng đã có chủ trương cách tân câu chữ trong thơ của mình. Vũ Quần Phương thì
còn là sinh viên chỉn chu ở trường y. Nhưng khi bài thơ “Phăng-xi-păng ta lên
đến đỉnh” của anh công bố trên báo, câu thơ ám ảnh người đọc “Lá ải bay mùi men
cổ sơ...” thì càng làm tăng phần tăm tiếng của nhóm thi sỹ trẻ bộ ba này. Anh
em truyền miệng rằng, nhóm ba thi sỹ trẻ này, thiêng liêng với thơ lắm. Họ thường
đốt hương trầm trước khi đọc thơ. Họ còn làm cuốn sổ thật đẹp chép thơ chung
của nhau, để lưu với thời gian. Mỗi người chép thơ của mình bằng màu mực riêng.
Người khởi xướng trò chơi thơ này, là Tô Hà. Tô Hà còn tuyên bố rằng, những vần
thơ trong cuốn thơ này sẽ bất tử. Chả biết thực hư ra sao, sau này, tôi có đem
chuyện đó hỏi nhà thơ Vũ Quần Phương, thì được nghe trả lời, đúng là một dạo ba
anh em rất quý nhau. Mọi người quý và đặt giai thoại đẹp về chúng tôi đấy, chứ
làm gì có việc đốt hương trầm khi đọc thơ và đâu có sổ chép thơ bất tử với thời
gian đâu. Nhưng quả thật, tình cảm say mê và thiêng liêng với thơ, với ba nhà
thơ này, tôi thấy đúng với suốt đời của họ.
Rất nhiều
giai thoại về niềm say thơ của nhà thơ Tô Hà. Ví dụ, gặp bạn thơ, Tô Hà mải nói
chuyện thơ, quên cả giờ đón con ở nhà trẻ. Một sớm, người vợ mua bát phở về mời
nhà thơ ăn sáng, mải nói chuyện thơ với người khách đến chơi, bát phở để nguội trương
phềnh cho đến tận trưa. Gặp người bạn thơ trên đường, Tô Hà hoan hỉ nói về bài
thơ mới viết, mải chuyện, quên cả đèn đỏ, công an phải tuýt còi. Anh có thể xắn
tay áo sẵn sàng đọ sức với kẻ rèm pha, lăng mạ một nhà thơ nào mà anh yêu quý. Còn
khá đặc biệt nữa, là anh em ở báo Người Hà Nội thường xuyên thấy Tô Hà say mê
đọc thơ, nói chuyện thơ thay bữa ăn trưa. Chả là báo ngày đó, Tô Hà và Chử Văn
Long là hai nhà thơ khá tâm đầu hợp ý với nhau. Gia cảnh Tô Hà ngày đó, người
vợ là bác sỹ đi làm chuyên gia ở Châu Phi. Còn nhà thơ Chử Văn Long, quê tận làng
Vạn Phúc, ven bờ sông Hồng, cuối huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Buổi
sáng, Tô Hà thường điểm tâm bằng bát mỳ sợi tự nấu, còn Chử Văn Long lại lót dạ
bằng bát xôi ngô, sản phẩm đồng bãi quê anh. Thời khó khăn, chả ai quan tâm gì
chuyện vật chất. Buổi trưa, mọi người trong tòa báo thường về nhà, chỉ còn lại
hai nhà thơ ở lại tòa soạn, họ uống nước chè nhạt, nói chuyện thơ cho qua bữa. Chả
biết thơ ca có sức huyền diệu gì, chứ tôi đã mấy lần chứng kiến cảnh hai nhà
thơ đàm đạo thơ thay bữa cơm trưa, vì tôi chợt đến chơi và cùng hòa đồng không
khí thơ ca quên cơm như thế.
Bình
thường, Tô Hà là người hiền lành, dễ tính. Nhưng hễ tranh luận về thơ, anh như
biến thành người hào sảng và khắt khe vô chừng. Tô Hà là người không chấp nhận
sự dễ dãi trong thơ. Ngay khi anh soạn và in cuốn “Những câu thơ trong trí
nhớ”, gây ít nhiều không bằng lòng cho người này người kia. Bởi lẽ, có nhà thơ
cao tuổi làm thơ lâu năm, có nhà thơ giữ chức sắc trong Hội nhà văn, có nhà thơ
là bạn thân của anh, họ gay gắt phản đối, vì anh không chọn thơ của họ in trong tập. Tô Hà
thẳng thắn trả lời, vì tiêu chí chọn những câu thơ hay. Nếu thấy chưa hay, thì
không chọn, bất chấp tuổi tác, chức quyền, thân hay sơ. Có thể nhiều câu thơ
hay chưa có trong tập (vì theo trí nhớ), chứ xem ra, trong tập, không có những
câu thơ nép. Tô Hà là người khắt khe với thơ tới mức riết róng. Hay, anh khen
hết lời. Dở, anh chê thẳng cánh, không né tránh. Trong một bài bình thơ in trên
báo, Tô Hà phê phán những chữ vụng trong bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Giang
Nam. Anh chỉ ra những chữ có chim, có bướm là vụng trong câu thơ. Ngay câu thơ có
một phần xương thịt của em tôi, Tô Hà cho là không ổn. Khi ấy, nhà thơ Giang Nam
đương là phó chủ tịch tỉnh Khánh Hòa đã phản ứng bằng văn bản khá gay gắt gửi
về tòa báo, cho rằng Tô Hà “phủ nhận quá khứ”. Tô Hà khi ấy rất buồn. Theo anh,
nghệ thuật, nhất là thơ, phải biết nhìn thẳng ra cái hay, cái dở, không nên
ngụy biện bằng bất cứ lý do nào. Sau đợt ấy, ngỡ tưởng Tô Hà nhân nhượng với
thơ hơn. Nhưng không, anh vẫn giữ thái độ cực đoan với thơ. Anh vẫn cố súy hết
lời những bài thơ, tập thơ mà anh thấy hay. Anh phê phán, thẳng thắn chê những bài thơ, tập thơ dở, cẩu
thả.
Tô Hà là
người hết mình với bạn thơ. Sau ngày người bạn thân- nhà thơ Nguyễn Mỹ hy sinh
trong chiến trường, Tô Hà luôn tâm niệm phải lo in sớm cho người bạn mình tập
thơ. Anh đi đâu cũng thường nói về thơ của Nguyễn Mỹ. Một buổi sáng tại khuôn
viên trụ sở Hội nhà văn Hà Nội, Tô Hà gặp mấy bạn thơ và anh đọc mấy bài thơ di
cảo của Nguyễn Mỹ cho bạn bè nghe cùng. Rồi anh đọc lại bài thơ “Cuộc chia ly
màu đỏ”. Giọng anh róng riết, quăn thắt, nức nở. Mỗi câu thơ, như khơi gợi nỗi
niềm nhớ thương người bạn thân tài hoa đã vĩnh viễn ra đi. Khi đọc đến câu thơ
cuối “Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi/ Như không hề có cuộc chia ly!” Bất chợt Tô Hà
bật khóc. Anh khóc nức nở, làm bao người bữa ấy bối rối. Sau thời gian ấy, Tô
Hà cùng bạn bè đã lo in cho Nguyễn Mỹ tập thơ.
Anh là
người khó tính với thơ, nhưng lại là người sống xuề xòa và chân tình với bạn.
Nhà thơ Chử Văn Long kể lại, dạo gia đình anh khó khăn, con đi học xa mà không
có tiền mua xe đạp, Tô Hà liền bảo Chử Văn Long đem chiếc xe đạp nữ khung võng của
mình về sửa sang cho cháu đi học. Chiếc xe đạp khung nữ ấy, theo cháu đi suốt
cả năm trời. Ấy rồi, một bữa kẻ trộm khoắng mất chiếc xe đạp tình nghĩa ấy, làm
nhà thơ Chử văn Long buồn mãi. Nhà thơ Ngô Thế Trường kể, năm 1975, khi mới tập
toẹ viết thơ gửi báo, đến Hội văn nghệ
Hà Nội, Ngô Thế Trường rất cảm kích khi được gặp nhà thơ Tô Hà. Bữa ấy, không
biết có phải vì quý người làm thơ trẻ từng cùng sống ở đất Cảng hay không, Tô
Hà lấy giấy ra ký họa chân dung Trường. Bức ký họa này, Ngô Thế Trường vẫn lưu
giữ và đem in lên trang bìa tập thơ “Sóng mặn” của mình vừa phát hành. Lại kể
về người là khuôn mẫu trong bài thơ “Chuyện không có trong thư” của Tô Hà. Đấy
là một cô gái tốt nghiệp trung cấp bưu chính năm 1965, xung phong lên công tác
ở Yên Bái. Cô được phân công về bưu cục đặc biệt số 910, sơ tán tại Đầm Hát. Cô
gái nhiệt tình làm đủ thứ việc, nào bán tem, chọn thư, chuyển bưu kiện. Một
hôm, cô nhận chuyển túi công văn hỏa tốc sang Tỉnh ủy, khi lội qua con suối
cuồn cuộn chảy, cô suýt bị lũ cuốn, thì một cánh tay người con trai đi phía sau
đỡ vội và dìu cô và túi công văn sang bờ kịp thời. Người con trai đó, xưng tên
là Tô Hà, công tác ở phòng thi đua tuyên truyền Tổng cục Bưu điện. Cuộc gặp gỡ
tình cờ đó, rồi thành thân quen. Chiến tranh phá hoại đã vào kỳ căng thẳng.
Người con trai lại đi công tác nhiều nơi, khi Quảng Ninh, Thanh hóa, Nghệ An...
Thi thoảng, có gửi thư và những vần thơ mới viết về tặng cô gái. Một bữa, cô
gái nhận được bài thơ anh gửi tặng, với dòng chữ “Mến tặng em. Em là hồn của
bài thơ này”. Đó chính là bài thơ “Chuyện không có trong thư” của Tô Hà. Cô gái
giữ mãi bài thơ, như một kỷ niệm quý. Cho tới ngày, cô lấy chồng, người chồng
hay ghen vô lối đã đốt bài thơ có dòng chữ đề tặng kia. Cô gái kia đau khổ vô
chừng. Tất nhiên, bài thơ đã được in trên báo ngay thời điểm đó. Rồi sau in
trong nhiều tuyển thơ. Câu chuyện mãi sau này tôi mới được nghe kể. Thực hư ra
sao, chả rõ, nhưng tôi thấy yêu quý bài thơ này thêm nhiều lần.
Say
thơ, cẩn trọng, kỹ tính trong sáng tác, nhưng nhà thơ Tô Hà không phải là người
viết nhiều. Những câu chữ như được chắt lọc qua lăng kính đầy biến ảo trong tư
duy của nhà thơ. Tôi thích những câu thơ đẹp ngẩn ngơ của anh “Hà Nội em về may
áo mới” hoặc “Ơ hay cánh bướm hồn nhiên cũng/ Trắng muốt bay theo những lượm
vàng”, hoặc cái đẹp luôn bùng nổ trong bài thơ “Trước cơn mưa mùa hạ” của anh “Mây
nổ pháo ngang trời sấm động/ Lá phần phật sáng lá xanh chưa/ Mải theo một dáng
xa thăm thẳm/ Quên cả vầng trăng lạc cả mùa”. Những ngày cuối đời, thơ anh nghĩ
ngợi và buồn.”Nếu ngày kia anh chết/ Thơ chẳng còn đâu/ Chỉ còn cái bóng nơi
anh ngồi viết/ Nếu ngày kia anh chết/ Cái bóng chả còn đâu/ Chỉ còn con mèo
sưởi nắng nơi anh ngồi viết”. Bạn bè đôi lần chứng kiến cảnh anh ngồi thu lu cô
đơn trên chiếc ghế giữa phòng làm việc. Anh sống lặng lẽ, ít khi giãi bày
chuyện riêng của mình cho mọi người.
Những ngày cuối năm 1990, bệnh tật càng hoành
hành anh. Căn bệnh suy thận đã vào giai đoạn cuối. Một mình nằm trong viện, sau
phút chống trả những cơn đau, anh lại mê mải làm thơ. Thơ như liều thuốc xoa
dịu những nỗi đau thể xác và tâm hồn anh. Những câu thơ chắc gọn, thẫm đẫm nỗi
niềm. Những câu thơ như cắt từ gan ruột.
Angola
là đâu?
Mà lên đường em khóc
Luanda
là đâu?
Mà
tháng năm dằng dặc
Mà
nửa vòng trái đất
Mà em
về chiêm bao.
(Em về chiêm
bao)
Những câu thơ
cuối đời, chới với, ứa nước mắt. Không biết nhà thơ viết cho chính mình, hay
cho người thân, hay cho những ai trong cõi nhân gian trập trùng, mù mịt. “Bụi
hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao”. Có phải thơ viết từ gan ruột, thì nó ám vào phận
đời, như một tiên cảm, như sự linh ứng nào đó.
Thưở ấy anh là mây dưới kia
Theo trăng vằng vặc rủ em về
Ai hay trước ngõ em đâu mất
Để
lại tơi bời anh lối khuya.
Từ
ấy không đêm cũng chẳng ngày
Anh là giá buốt của sương bay
Là
sao đẫm ướt run trên lá
Trăng ngỏ lời suông với gió may.
Sau hơn hai
mươi ba năm ngày anh ra đi, bình tĩnh đọc lại những vần thơ nhà thơ Tô Hà viết
những ngày cuối đời, thì thấy những câu chữ kia có gì u uẩn, chập chờn, ma mị,
như mây như khói. Như linh tính một điều gở, không bình thường. Rõ là không
bình thường rồi. Một thế giới đâu đó không đêm không ngày. Một cõi cao cao
không phải thế giới dương gian trần tục, mà người là mây dưới kia, là sao đẫm
ướt run trên lá. Để rồi:
Ngõ
cũ ai về thăm lối xưa
Anh
thành cõi khác của đam mơ
Nghe hồn thu lạc qua hư ảo
Ai
khóc tên mình trong nắng trưa.
12 giờ 22
phút, ngày 15-1-1991, nhà thơ Tô Hà trút hơi thở cuối cùng, khi tiếng khóc của
người thân quanh anh bật xé lên. Câu thơ anh viết Ai khóc tên mình đã vận đúng
vào số phận anh. Anh ra đi giữa ngày đông âm u, nhưng lúc ấy nắng trưa bừng lên
thật. Cái hạn của đời người, theo dân gian đúc kết “Bốn chín chưa qua, năm ba
đã đến”. Nhà thơ Tô Hà mất khi sang tuổi năm mươi ba!