Nhà văn Ma Văn Kháng phân tích: “Lấy từ nguyên mẫu
ngoài đời những chất liệu để xây dựng nhân vật - diễn đạt ý tưởng nọ thành một
hoạt động có tính cơ giới như vậy nghe chừng chưa ổn, dù vậy vẫn phải nói ngay
rằng, đó là một chu trình đem lại cho nhà sáng tác rất nhiều hứng thú! Trước hết,
nhờ việc này, tôi có được cảm giác tự tin rõ rệt. Tự tin vì đã có bảo hiểm - tức
là đã tiếp cận được sát sạt chất liệu khởi nguyên của hiện thực. Tất nhiên cùng
với sự tự tin còn là khoái cảm về năng lực chinh phục, chiếm hữu đối tượng. Và
sau nữa, còn là cái hào hứng do được hưởng miễn phí những gì thuộc về sở hữu của
nguyên mẫu...”
NHÂN VẬT VĂN HỌC – BÍ ẨN CỦA NGHỀ VIẾT
MA VĂN KHÁNG
1.
Có nhà văn nào đang viết theo dòng hiện thực khi xây dựng nhân vật lại không
vay mượn từ một nguyên mẫu đã có sẵn ở ngoài đời? Chắc là không! Hình thức vay
mượn có nhiều mức độ. Có thể là cả gói toàn phần, nguyên xi. Cũng có thể chỉ là
một phần tỉ lệ. Thậm chí có khi chỉ là một chút hơi hướng, một thoáng gợi mở, một
ám ảnh mơ hồ... nhưng cũng tức là có, có căn cứ, có cậy nhờ. Tất nhiên bao gồm
trong khái niệm này có cả hình thái pha trộn, lắp ghép, cải biến, thêm bớt. Các
ví dụ kinh điển về chuyện này thì có vô số. Lỗ Tấn đã nói về cách xây dựng nhân
vật A.Q thế nào thì ai cũng đã biết. Huyền ảo Mĩ Latin như G.Marquez cũng có lần
bảo: Tôi có thể chỉ cho mọi người biết
câu văn này, chi tiết nọ tôi lấy từ người nào. Còn các nhà văn Việt Nam
đương đại? Kinh nghiệm và lí luận về vấn đề này của họ chắc chắn là có thừa.
Nên ở bài viết này chỉ xin phép nói vài hiểu biết từ thực tế cá nhân.
Lấy từ nguyên mẫu ngoài đời những chất liệu để xây dựng
nhân vật - diễn đạt ý tưởng nọ thành một hoạt động có tính cơ giới như vậy nghe
chừng chưa ổn, dù vậy vẫn phải nói ngay rằng, đó là một chu trình đem lại cho
nhà sáng tác rất nhiều hứng thú! Trước hết, nhờ việc này, tôi có được cảm giác
tự tin rõ rệt. Tự tin vì đã có bảo hiểm - tức là đã tiếp cận được sát sạt chất
liệu khởi nguyên của hiện thực. Tất nhiên cùng với sự tự tin còn là khoái cảm về
năng lực chinh phục, chiếm hữu đối tượng. Và sau nữa, còn là cái hào hứng do được
hưởng miễn phí những gì thuộc về sở hữu của nguyên mẫu...
Tôi thường lấy nguyên mẫu ở đâu? Thông thường là ở bạn
bè, đồng nghiệp. Một bộ phận thường xuyên nhiều nhất nữa là những người thân
trong gia đình, họ hàng. Hiển nhiên nhiều khi còn là những gặp gỡ tình cờ ngẫu
sự. Và sau cùng, không thể quên và rất quan trọng là chính bản thân mình.
Những chất liệu gì có thể khai thác được từ nguyên mẫu?
Trước hết là từ hoàn cảnh ra đời và tình huống kịch,
tức cái làm nên cốt truyện mà nhân vật này có sẵn. Nguyễn Khải có lần nói: đi
cơ sở, gặp được nguyên mẫu kể chuyện hay, coi như thành công một nửa! Điều này
thật là quý giá, có được phải coi như trời cho. Dĩ nhiên là có thể lấy từ
nguyên mẫu tất cả những gì mà anh ta có, từ ngoại hình, dung mạo, tính tình,
tâm lí, đặc điểm phong cốt, đến tiểu sử, thậm chí đến cả những thói tật cùng
cái danh xưng của anh ta. Và không cần nói thì ai cũng đã biết cái quy tắc sáng
tạo sau đây: chi tiết hiện thực là của khách quan, còn mô hình tạo nên là của
nhà văn, chọn lọc sử dụng từ nguyên mẫu những gì là do tính khuynh hướng của
nhân vật, do ý đồ của nhà văn quyết định. Nói đại để là vậy, là bởi vì để giải
đáp lí do nhà văn tại sao lại chọn anh này mà không chọn chị kia làm nguyên mẫu,
hoặc tại sao lại chọn chi tiết này mà không chọn chi tiết kia trong nguyên mẫu,
hoặc tại sao so với nguyên mẫu diễn biến câu chuyện lại thế này mà không phải
thế khác, nghĩa là để làm sáng tỏ căn nguyên của câu chuyện thì nhiều khi chính
nhà văn cũng không thể giải minh được. Một bí ẩn còn đang tù mù trong bếp núc
nghề nghiệp. Một căn buồng tối, trong đó diễn ra có khi là cả chuỗi những ngẫu
hứng, những phù phép ma thuật gì nữa, nào ai có thể giải trình được?
2.
Mỗi cuốn tiểu thuyết của tôi thường ứng với một quãng đời thật của mình. Đọc
chúng, tôi nhận ra, mình chỉ có thể viết được một cái gì đó nếu trong đó có cái
phần tham dự của cá nhân mình, có khi rất ít ỏi và chỉ là gián tiếp. Nên các
nguyên mẫu của tôi thoạt đầu thường là các bạn bè đồng nghiệp, những người gần
gụi với tôi, đã có một thời gian chung sống với tôi, đã có chút ít kỉ niệm với
tôi.
Việc đưa nguyên mẫu ngoài đời thành nhân vật trong
sách của tôi có lẽ bắt đầu từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Đồng bạc trắng hoa xòe, xuất bản năm 1979. Số là hồi đó, cuối những
năm 50 của thế kỉ trước, tôi được phân công viết hồi kí cho các đồng chí cán bộ
hoạt động ở thời kì tiền khởi nghĩa 1945. Trong quá trình làm việc này, tôi bắt
gặp và lập tức say mê câu chuyện một chiến sĩ cách mạng một thân một mình đi
vào các vùng đất của các thổ ti thuyết phục họ, rồi qua họ đến với quần chúng
lao khổ, giác ngộ, tổ chức họ, tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông
tên là Lê Khánh, còn được gọi là Lê Thanh, Thanh cao. Khi tôi viết hồi kí cho
ông thì ông đã từng là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh tôi và đang là một cán bộ cao cấp của
đoàn thể - Phó Trưởng ban kinh tế Trung ương. Tôi đã hỏi ông thật kĩ lưỡng về
chuyến đi có một không hai đó. (Về hình thức nó giống với chuyến đi qua các nhà
điền chủ Nga để mua các linh hồn chết của nhân vật Tchichikôp trong cuốn Những
linh hồn chết của Gogol). Ông Lê Khánh ở ngoài đời đã được tái hiện qua nhân vật
Lê Chính ở cuốn sách của tôi. Được tái hiện chủ yếu trong những hành vi cao cả
anh hùng - một đặc điểm của tiểu thuyết mang tính sử thi. Một vài nhân vật khác
như Đắc, chỉ huy quân sự, ở phía chính diện cũng trong vòng chế định đó. Trong
cuốn sách ấy, Khả, một thư kí văn phòng, một nhân vật comique, mang nhiều nét
hài hước có tác dụng tạo nên mặt thoáng cho cuốn sách dày 600 trang này, có
nguyên mẫu là một công chức lưu dung đi theo cách mạng ở ngoài đời mà tôi quen.
Nhân vật Hoàng Thị Châu, một cán bộ phụ nữ, người yêu của Lê Chính cũng từ một nguyên
mẫu có thật. Khác với các nhân vật chính, họ ở ngoài sự quy ước của thể loại,
do vậy họ sinh động và gần với nguyên mẫu hơn.
Với cuốn Vùng
biên ải của tôi in năm 1983 thì tình hình có khác chút ít. Vùng biên ải
miêu tả cuộc đấu tranh gian nan phức tạp - cuộc tiễu phỉ, thực chất là một cuộc
tự vật lộn của một cộng đồng dân tộc để cải biến mình, để thoát ra khỏi
áp bức bóc lột cùng những định kiến mê muội. Nhân vật chính trong cuốn này là
hai anh em ruột Giàng A Lử và Giàng A Pao. Pao đi theo cách mạng. Lử là trùm thổ
phỉ. Hai con đường đối lập nhau. Hai tính cách hai số phận trái ngược nhau. Lúc
này tôi không có điều kiện để sống ở các bản người Mông. Nhưng rất may, tòa báo
Lao Cai, nơi tôi công tác, bên cạnh tờ báo chữ quốc ngữ, có tờ phụ trương xuất
bản bằng chữ Mông tuần một số. Làm việc biên dịch là hai anh người Mông. Một là
anh Vàng Seo Tống. Một nữa là anh Giàng Xuấn Phủ. Sống với nhau bảy tám năm
ròng, tôi thân với cả hai anh. Hai anh, hai chân dung diện mạo, hai tính nết, đều
rất đáng yêu. Thế là tôi đã mạo muội và ngấm ngầm xin phép hai anh, chọn lựa từ
mỗi anh những nét cần thiết, kể từ diện mạo tính tình đến lời ăn tiếng nói... để
xây dựng nhân vật của mình, trong khi toàn bộ diễn biến của câu chuyện thì chẳng
có tí liên hệ nào đến tiểu sử của hai anh cả. Cũng như thế, khi viết Gặp gỡ ở
La Pan Tẩn, để có nhân vật Quốc Thanh, tôi đã mượn từ ông bạn tôi (tuyệt không
xấu xa như Quốc Thanh) đôi ba nét về ngoại hình, lối suy nghĩ thô giản và một
lô xích xông những câu chuyện lặt vặt của ông khi ông làm cán bộ hạ phóng phụ
trách xã Sảng Ma Xáo ở huyện Bát Xát tỉnh Lao Cai.
3.
Mùa lá rụng trong vườn in năm 1985 có
lẽ là cuốn sách đầu tiên trong đó nguyên mẫu đã rõ hơn hình bóng tôi và những
người thân của tôi. Lý là hình ảnh tổng hợp của các bà chị dâu tôi. Xinh đẹp,
tháo vát, thành thạo, đáo để và quan trọng là gắn liền một cách tự nhiên với nhịp
sống thường ngày hôm nay. Nhân vật Đông là khúc xạ nguyên mẫu ông anh vợ tôi.
Điều này tôi đã nói trong một vài lần được phỏng vấn. Chuyện tương tự cũng còn
thấy ở vài cuốn sách của tôi thời kì này. Những người thân của tôi thường là
cái kho dự trữ các mẫu hình nhân vật để tôi sử dụng khi sáng tác. Trong đó, phải
kể đến, đặc biệt là cuốn Côi cút giữa cảnh đời.
Côi cút giữa cảnh đời là câu chuyện những ngày gian
khó của một gia đình có ba bà cháu ở hậu phương trong những năm chiến tranh. Bố
ra chiến trường, không một tin tức. Mẹ nhẹ dạ đi theo người đàn ông khác. Còn lại
trong cô đơn nghèo khổ là ba bà cháu. Chống trả lại nghèo túng bệnh tật, các thế
lực vô nhân và ma quái, người bà là hiện thân của tấm lòng hỉ xả, tinh thần vị
tha, bản lĩnh cứng cỏi, kiên trinh và tình yêu thương máu mủ ruột rà.
Nhân vật người bà trong đó có nguyên mẫu là người mẹ
thân sinh ra tôi. Tôi đã chuyển hóa toàn bộ hình ảnh cùng những kỉ niệm về mẹ
tôi vào trang sách, với biết bao là thương nhớ, kính yêu, và gần như chẳng cần
một cố gắng gò ép nào. Mẹ tôi đó. Từ gương mặt tròn trịa mảnh dẻ như chiếc lá
sen. Từ đường ngôi thẳng tắp chia đều mái tóc sang hai bên. Từ dáng đi thoăn
thoắt. Từ cách ứng xử khôn ngoan và những câu đối đáp nhuần thấm ca dao dân ca
hoạt bát tài tình. Từ tình thương yêu lớn lao vô bờ của bà với con cháu. Đến
công lao chở che nuôi dưỡng dắt dìu con cháu đi qua bao hỗn độn bất công đau đớn
tủi hổ để đến với bến bờ an bằng, sáng tươi. Mẹ tôi đã nhập thân vào nhân vật
bà trong cuốn truyện. Nên giờ đây thi thoảng giở cuốn sách ra đọc lại, tôi lại
thấy hình ảnh mẹ tôi đang diễu vòng trong trí nhớ và không sao cầm được nước mắt
nhớ thương.
Cũng tự nhiên như thế, hai nhân vật trẻ con côi cút
là Duy và Thắm trong cuốn sách thì một là con gái tôi, một là cháu ruột tôi.
Không phải chịu hoàn cảnh côi cút cụ thể như sách viết, nhưng tính cách hai
nhân vật ấy trong sách thì gần như đã được sao chép từ những gì tôi quan sát
ghi nhận được từ hai đứa trẻ trong đời thường.
Nói như thế không phải là nhân vật người bà cũng như
hai đứa trẻ trong cuốn sách là tấm hình sao chép cơ học bà mẹ và một đứa
con cùng một đứa cháu tôi. Tất cả đều đã được biến hóa đi và bây giờ thì chính
tôi cũng không thể giải thích được, vì sao tôi lại thêm và bớt đi để cuối cùng
ba nhân vật đó rõ ràng là có nguyên mẫu, trong gia đình tôi ai đọc nó cũng nhận
ra, nhưng chúng vẫn là những thực thể độc lập.
4.
Nguyên mẫu một khi đi vào trang sách, dẫu đã sai lệch đi không nhiều thì ít, vậy
mà câu chuyện xem ra cũng không phải là đơn giản. Đặc biệt là khi nhà văn xây dựng
nhân vật có tính phản diện trong tác phẩm của mình.
Năm 1990, nhà văn Vi Hồng công bố tiểu thuyết Người trong ống. Cuốn sách mang tinh thần
phản biện. Ông đã gặp rắc rối to. Đến mức, cả một nhóm cán bộ có quan hệ
đã viết đơn kiện cáo, cho rằng ông đã phạm tội vu khống. Chứng cớ họ lôi từ
sách ra. Chẳng hạn, trong sách, mặc dầu nhà văn đã biết phòng bị, gọi cái địa
bàn xảy ra câu chuyện là tỉnh T., một địa danh phiếm chỉ, vậy mà với lối suy diễn
vơ vào, những người kiện cáo ông vẫn nhất quyết cho rằng ông đã nói xấu họ, vì
tên tỉnh họ cũng bắt đầu bằng chữ T. Thôi còn thiếu gì những ví dụ tiêu biểu
cho cái lối suy luận lấy được đó. Như kiểu nhân vật trong sách có tên là Hồi
thì họ bảo chính là ông Quế ở ngoài đời, vì hai cái tên cùng một loại hương phẩm,
gần gụi nhau. Như kiểu ông nói đông là để nói tây. Nói cái cột là để chỉ cái
kèo. Chưa kể, họ kê ra cả loạt chi tiết rồi đem ra so thì ông nọ ở trong sách y
hệt ông kia ở ngoài đời. Và như vậy thì rõ ràng là nhà văn đã dùng văn chương để
bôi nhọ người ta. Một tội đồ cần bị lên án (!?)
Chắc chắn là trường hợp xảy ra với nhà văn Vi Hồng
không phải là cá biệt. Từ xa xưa, nghe nói Nam Cao viết Chí Phèo cũng đã từng bị
lũ Bá Kiến đe loi cấm chỉ về làng. Nhà văn Việt Nam ta chắc không ít người mắc
cái vạ văn chương kiểu này. Tôi cũng đã có một hai lần dính phản đòn tương tự.
Một ví dụ: Hồi ấy ở ngoài đời, tôi gặp một chuyện oan ức, mà gây ra là từ tính
xu thời phù thịnh bỏ suy của một số người nông nổi. Có giăng mắc ở trong lòng
nên mới phát sinh ra cảm xúc, nên mới viết thành một truyện ngắn lấy tên là Cái
Tý Ngọ. Nhân vật Tý Ngọ trong truyện là cái tên tôi bịa ra, có những đặc điểm
ngoại hình na ná với một nguyên mẫu ở ngoài đời. Vậy là tôi nhận được có đến
vài chục lá thư nặc danh chửi bới thậm tệ, họ gọi tôi là kẻ vu cáo và trả thù
tôi bằng cách bới móc cả những nhược điểm xấu xí của tôi. Đáng ngạc nhiên hơn
là có cả một anh nhà văn bảo tôi là hèn hạ, vì đã sử dụng thứ văn chương ám chỉ.
Văn chương ám chỉ là thứ văn chương hèn hạ! Có phải thế chăng? Thế chẳng lẽ khi
Lev Tolstoy miêu tả Natasha đẹp cao quý từ nguyên mẫu Tania Bers thì là thứ văn
chương cao quý, còn Victor Hugo lấy nguyên mẫu từ đâu đó để dựng nhân vật Javer
hay Thénardié thì ông lại bị liệt vào loại nhà văn hèn hạ à?
5.
Rắc rối có khi còn gặp cả lúc nhà văn xây dựng hình tượng nhân vật tích cực từ
nguyên mẫu nữa kia. Năm ấy, tôi viết tiểu thuyết Võ sĩ lên đài. Nguyên mẫu là một cựu võ sĩ quyền Anh nổi danh toàn
quốc, bạn rất thân của tôi. Chuyện có cốt lõi từ đời anh. Từ lúc anh là học
sinh rèn tập ở các lò luyện gà của các võ sư đến khi anh thượng đài đấu với các
võ sĩ Campuchia, Đài Loan, Philippin, lính lê dương Pháp. Hình ảnh anh
tràn ngập trong mỗi trang sách. Nhưng cuối cùng anh vẫn không bằng lòng với tôi
ở cái kết, khi tôi để nhân vật có nguyên mẫu là anh bị mật thám bắt trong một lần
tham gia tổ chức học sinh cứu quốc đi rải truyền đơn và bị chúng tra tấn bằng
chính bọn võ sĩ đã bị anh cho đo ván. Anh phàn nàn rằng, chuyện của anh không
có thế. Nhưng mà tôi không thể chiều ý anh được! Cuốn sách của tôi là một tác
phẩm văn học, nó bị chi phối bởi cái gì đó, chẳng hạn là một thói quen của tôi,
một quan niệm của tôi về chân lí và đạo đức, hoặc nó bị ảnh hưởng từ một mẫu
hình nào đó, chính tôi cũng không rành mạch được. Thực là như thế! Vậy mà trong
một lần trò chuyện về việc dạy văn trong nhà trường, một giáo sư tiến sĩ lại bảo
với tôi rằng: Văn là kết quả của quá trình lao động say nhưng tỉnh của con người.
Do đó phải làm cho trẻ em thực bụng tin rằng văn là kết quả của hoạt động có ý
thức của con người. Và nói điều đó là giáo sư tiến sĩ căn cứ vào quan điểm của
Karl Marx khi ông cho rằng, phải trần gian hóa mọi vấn đề của con người (?)
Thật tình là tôi không có ý cường điệu câu chuyện để
khoa trương. Nhưng có lẽ đúng là đã có cái đáng gọi là bí ẩn mà các nhà
văn đàn anh của tôi đã thấy mà ngại ngùng không muốn kể lại, hoặc chẳng muốn mất
thì giờ trong cái việc như là chẻ sợi tóc làm tư này làm gì!
6.
Tháng 11 năm 2013, trên tạp chí Văn học & Tuổi trẻ, tôi in bài Phút giây thiêng kể lại chuyện nhà văn
Nguyễn Thành Long đã căn cứ nguyên mẫu anh học sinh Nguyễn Văn Ngọ của tôi lúc
đó đang là nhân viên trạm khí tượng Sa Pa tỉnh Lao Cai để xây dựng thành hình
tượng anh thanh niên hết lòng vì công việc chung trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa
Pa. Tôi không hề hay biết, trước đó trên số 6 năm 2003, tạp chí cũng đã in bài
của một tác giả khác, trong đó khẳng định rằng nguyên mẫu anh thanh niên trong
truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thành Long là anh Lê Văn Sử hồi đó cũng là nhân
viên ở trạm khí tượng này. Vậy ai là nguyên mẫu thật đây? Dư luận xôn xao hư thực.
Tòa soạn tạp chí vào cuộc giải mã. May mà qua trả lời phỏng vấn của phóng viên,
anh Ngọ tỏ ra rất khiêm nhường và hiểu biết, nên đã không xảy ra chuyện “tranh
chấp bản quyền”, hơn nữa còn phát hiện thêm một hiện tượng văn học khá lí thú.
So sánh thì khập khiễng, nhưng có thể là sự việc cũng giống như trong Chiến
tranh và hòa bình của Lev Tolstoy, nhân vật Natasha vừa có nguyên mẫu là cô
Tania Bers, vừa có nét tương tự như nữ nhân vật trong tiểu thuyết Hạm đội rạng
đông của M.E.Bradon.
7.
Nguyên mẫu và nhân vật văn học. Cái tự nhiên và cái nhân tạo. Cái ngẫu nhiên và
cái là sản phẩm của sáng tạo. Một công cuộc chuyển hóa âm thầm, trước sau vẫn
hoàn toàn là bí ẩn, vì không thể giải mã và chẳng dám nói trước điều gì về sự sống
bất tử hay cái chết non yểu của cái anh viết ra! Tính chân thật và đúng đắn của
người viết tiểu thuyết dựa trên nền tảng này: tiếp nhận những con quỷ của riêng
mình và sai khiến chúng bằng sức mạnh của mình. Đó là ý kiến của Jorge Mario
Vargas Liosa, người Péru, một trong những nhà văn vĩ đại nhất của châu Mĩ
Latin. Còn Albert Einstein thiên tài thì nói: Cái đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể
trải nghiệm được, đó là cái bí ẩn. Đó là cảm thức nền tảng trong cái nôi của nghệ
thuật và khoa học chân chính!