Ông Khúc Ngọc Chân kể rằng, khi viết “Ngậm đắng nuốt
cay nhiều rồi” là viết rất thực về những ngày luồn lủi, nơm nớp sợ bắt lính, sống
không yên chút nào trong lòng Hà Nội tạm bị chiếm. Đến khi ông viết “Sài Gòn
ơi! Mộng với tay cao hơn trời” cũng là tưởng tượng về cánh tay giơ cao của Nữ
thần Tự do. Ông viết trong một thầm ước mong manh cho ngày gặp lại không biết đến
khi nào... Ca khúc được viết xong, Khúc Ngọc Chân đã tập cho nàng hát, khi ấy
đã là cuối tháng 11/1954.
AI THỰC SỰ CÓ “NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI” ?
NGUYỄN THỤY KHA
Một buổi sáng cuối thu Hà Nội, có một người nhỏ thó
đến tìm gặp tôi. Đó là ông Khúc Ngọc Chân, từng chơi cello ở Dàn nhạc Giao hưởng
Việt Nam. Ông nói rằng ông có bài thơ về tổ tiên được khắc trên bia đá tại đền
thờ họ Khúc ở quê. Dần dà, ông bắt đầu kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ra đời của
ca khúc “Nỗi lòng người đi” mà chính ông là tác giả với cái tên đầu
tiên là “Tôi xa Hà Nội”.
Khúc Ngọc Chân sinh năm 1936 tại phố Tô Tịch – Hà Nội.
Khi ông Chân vào tuổi thanh xuân cũng là khi cuộc chiến đấu chống Pháp sắp vào
hồi kết. Bởi vậy, các thanh niên Hà Nội nơm nớp bị bắt lính, đưa ra các chiến
trường. Để thoát khỏi cảnh cưỡng ép này, gia đình đã nhờ người thân xin cho ông
vào làm nghề sửa chữa máy vô tuyến điện trong thành Hà Nội. Làm ở đây, vừa
không bị bắt đi lính, lại chỉ phải làm có nửa ngày. Vốn yêu âm nhạc, ông Chân
tìm đến học đàn thầy Wiliam Chấn ở gần hồ Tây. Qua học thầy mà ông
Chân quen với một thiếu nữ Hà Nội tên là Nguyễn Thu Hằng kém ông 2 tuổi. Rồi
tình yêu nhen lửa. Họ đã có những ngày đầu yêu thương thật thơ mộng bên bờ hồ
Gươm.
Sau giải phóng Thủ đô, ông Chân phải theo gia đình về
quê. Khi trở về Hà Nội, ông Chân mới biết gia đình người yêu đã xuống Hải
Phòng, chờ di cư vào Nam. Ông tìm xuống Hải Phòng chờ tiễn nàng xuống tàu. Những
ngày đó, với cây guitar luôn mang theo bên mình, Khúc Ngọc Chân viết Tôi
xa Hà Nội tại khách sạn Cầu Đất – Hải Phòng, viết lại những gì đã bâng
khuâng trong suốt những ngày tháng xa nhau.
Những ngày ngắn ngủi bên nhau ở Hải Phòng, họ đã yêu
nhau và hẹn nàng cứ vào trước, chàng sẽ vào sau, tìm nàng ở Sài Gòn.
Ông Chân kể rằng, khi viết “Ngậm đắng nuốt cay nhiều
rồi” là viết rất thực về những ngày luồn lủi, nơm nớp sợ bắt lính, sống không
yên chút nào trong lòng Hà Nội tạm bị chiếm. Đến khi ông viết “Sài Gòn ơi! Mộng
với tay cao hơn trời” cũng là tưởng tượng về cánh tay giơ cao của Nữ thần Tự
do. Ông viết trong một thầm ước mong manh cho ngày gặp lại không biết đến khi
nào... Ca khúc được viết xong, Khúc Ngọc Chân đã tập cho nàng hát, khi ấy đã là
cuối tháng 11/1954.
Ngày tiễn nàng và gia đình xuống tàu há mồm di cư
vào Nam, chàng và nàng cùng xuống một chiếc thuyền con ở bến Bính để đi ra nơi
tàu đậu ngoài cửa biển. Thuyền cứ trôi, còn chàng thì cứ bập bùng guitar và
hát Tôi xa Hà Nộicho nàng nghe. Nàng vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên mạn
thuyền. Một cảnh tượng chia tay thật lãng mạn như trong tiểu thuyết của Tự lực
văn đoàn. Con tàu đã rời xa đất liền, trôi mãi vào biển cả mênh mang, mang theo
nàng và mối tình đầu day dứt cùng giai điệu đượm buồn kia. Chàng trở lại
Hà Nội, nhưng nỗi nhớ nàng thì cứ thắp sáng trong những đêm trường cô đơn.
Còn nàng, khi vào Sài Gòn, với khả năng văn nghệ và
vẻ đẹp của mình, nàng đã đến đầu quân cho một quán bar. Ở đó, nàng vừa làm
việc, vừa nhớ người yêu. Ca khúc của chàng đã được nàng tự hát trong
những đêm thương nhớ. Hát để nhớ chàng, hát để chia sẻ với bao người khác có
tâm trạng nhớ nhung như nàng. Và đương nhiên, ca khúc hay như thế đã lọt vào thẩm
âm của nhiều nhạc sĩ lúc đó khi xa Hà Nội, chắc chắn trong đó có nhạc sĩ Anh Bằng.
Ca khúc đã có một số phận khác khi được nhạc sĩ nhận thức và tìm cách xử lý.
Ở lại Hà Nội, năm 1956, ông Chân vào học đàn cello ở
Trường Âm nhạc Việt Nam; Khi tốt nghiệp thì về công tác tại Dàn nhạc Giao hưởng
Việt Nam. Ngày thống nhất đất nước, khi Dàn nhạc Giao hưởng vào biểu diễn ở Sài
Gòn vừa giải phóng, ông Chân đi tìm người yêu thì biết tin người yêu vò võ đợi
chờ ngày gặp lại đã mất vì mắc bệnh hiểm nghèo năm 1969, khi mới vào tuổi tam thập
nhị lập. Chính vì người yêu đã mất nên ông không sao hiểu nổi bằng cách gì mà
ca khúc Tôi xa Hà Nội của ông lại lọt vào tay nhạc sĩ Anh Bằng, được
ông sửa thành nhịp 4/4 theo điệu slow và phổ biến “quá trời” tại Sài Gòn. Ông
Chân nói rằng đó là điều may mắn. Khi ấy, nếu ca khúc loang ra mà lại ghi tên
ông là tác giả, chắc ông khó mà ngồi yên ở Dàn nhạc Giao hưởng cho đến khi về
hưu. Nhưng vì ca khúc ghi là của tác giả Anh Bằng nên những ca từ rất thực của
ông diễn tả nỗi phấp phỏng trong lòng Hà Nội tạm bị chiếm lại trở thành một vệt
đen mang đậm nỗi ấm ức của bao người di cư ở bên kia chiến tuyến. Lại nữa, vì
Anh Bằng đổi tên ca khúc thành Nỗi lòng người đi nên vệt đen kia hóa
thành có thực khi đất nước bị chia cắt. Cũng chính vì thế mà cho đến
nay, Nỗi lòng người đi (vốn là Tôi xa Hà Nội) vẫn chưa được cho
phép hát lại.
Tìm hiểu về nhạc sĩ Anh Bằng qua nhiều luồng thông
tin thì thấy rằng điều ông Chân thổ lộ rất có cơ sở. Nhạc sĩ Anh Bằng tên khai
sinh là Trần An Bường. Ông sinh năm 1925 tại thị trấn Bỉm Sơn thuộc Ninh Bình.
Ông học trung học tại Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Sau ngày 30/4/1975, Anh Bằng
sang Mỹ, cư trú tại Houston, bang Texas. Ông vẫn hoạt động văn nghệ trong cộng
đồng người Việt và hiện là cố vấn trung tâm Asia Entertainment tại Houston.
Ngày ấy, khi nghe được ca khúc Tôi xa Hà Nội do một thiếu nữ làm ở
quán bar hát mà lại không biết xuất xứ, với khả năng âm nhạc của mình, Anh Bằng
đã thuộc được giai điệu này. Ông thấy rất hợp tâm trạng của những thanh niên vừa
phải xa Hà Nội di cư vào Sài Gòn. Vậy là để hợp thời thế, Anh Bằng đã chuyển nhịp
3/8 gốc của ca khúc Tôi xa Hà Nội thành nhịp 4/4, dùng tiết điệu
slow. Còn về ca từ, Anh Bằng đã khéo léo gắn vào đó tên của một nhà thơ tình nổi
tiếng là Nguyễn Bính. Nhưng rất tiếc, sau hiệp định Geneve, ông đã ra tập kết ở
miền Bắc. Có lẽ thông tin này Anh Bằng không biết nên ông đã tự “vu” cho Nguyễn
Bính chịu trách nhiệm ca từ này. Trong ca từ, Anh Bằng có sửa vài chỗ. Chỗ thì
cho lãng mạn hơn theo ý của ông. Đấy là câu “Khua nước chơi như ngày xưa” thành
“Khua nước trong như ngày xưa”. Hồ Gươm còn được gọi là hồ Lục Thủy, tức là hồ
nước xanh tự ngàn xưa nên chữ “trong” không đúng với hiện thực mà là tưởng tượng
ra thôi. Còn nữa, nếu Khúc Ngọc Chân viết: “Mộng với tay cao hơn trời/ Ai nhắn
thay tôi đôi lời” thì Anh Bằng sửa là “Tôi hái hoa tiên cho đời” thì đúng là ca
ngợi cuộc sống Sài Gòn lúc đó, để cho người miền Nam thấy đang hưởng một cuộc sống
“phồn hoa” tuy “giả tạo”. Cuối cùng, Anh Bằng đã đổi tên ca khúc Tôi xa Hà
Nội thành Nỗi lòng người đi, rất phù hợp với tâm trạng những người xa
Hà Nội khi ấy ở Sài Gòn. Và nhờ Nỗi lòng người đi, Anh Bằng đã chính thức
bước vào làng nhạc để rồi tạo ra trung tâm âm nhạc “Lê – Minh – Bằng”, tức là
trung tâm do 3 nhạc sĩ: Lê Dinh - Minh Kỳ - Anh Bằng khởi xướng, chuyên làm đĩa
nhạc và dạy âm nhạc ở Sài Gòn từ 1966 - 1975.
Có một điều muôn thuở là “cái gì của Ceza thì trả lại
cho Ceza”. Bài viết này tuy đã muộn nhưng vẫn còn kịp kể vì nhạc sĩ Anh Bằng có
thể có một lời nào đó với nhân gian về câu chuyện này.