Từ nhỏ tôi đã nghe bố
tôi ngâm câu ca dao: “Sóc Sơn là ngọn núi
nào / Có ông Thánh Gióng bay vào trời xanh”. Thế là tôi mơ về đôi cánh ngựa
bay trong vũ trụ bao la, với câu chuyện cổ tích Phù Đổng Thiên Vương thần kỳ. Lớn
lên, trên ghế nhà trường tôi lại học thuộc bài thơ “Núi Đôi” của tác giả Vũ Cao,
nói về tình yêu và sự hy sinh của người con gái, một nữ chiến sĩ trẻ nhất thôn
Đoài. Vậy là lần nào đi dọc con đường Núi Đôi của thị trấn Sóc Sơn, trong lòng
tôi cứ lâng lâng cảm xúc: “Nắng lụi bỗng
dưng mờ bóng khói / Núi vẫn Đôi mà anh mất em”.
THỊ TRẤN LƯU GIỮ NHỮNG
HUYỀN THOẠI
LƯU
CƯỜNG
Con
phố lãng mạn màu xanh
Từ năm 1987, thị trấn Sóc Sơn được hình
thành bởi một nửa của hai xã Phù Linh và Tiên Dược gộp lại, nên lọt vào giữa những
cụm di tích và công nghiệp lớn nằm rải rác ở chung quanh. Thị trấn trở nên thơ
mộng là vì vậy. Trục đường xuyên suốt thị trấn từ Đông sang Tây chính là hai điểm
nút; bắt đầu là tượng đài anh hùng, Phòng không-Không quân chót vót trên đồi
cao của xã Tiên Dược; còn kết thúc là hai ngọn núi thuộc xã Phù Linh. Đó
là con đường mang tên Núi Đôi, với những
hàng cây xanh tỏa bóng mát, dẫn tôi đi vào câu chuyện tình đã trở nên huyền thoại
giữa hai người lính trẻ ngày nào.
Chủ tịch thị trấn Sóc Sơn, anh Đào Anh
Tú dẫn chúng tôi đi khảo sát dọc con đường Núi Đôi. Anh tự hào về con đường cây
xanh ngút ngát, với những hè phố chợt như tươi mới sau cơn mưa, thênh thang
trong một màu son lấp lánh. Tôi cứ mải nhìn những bông hoa tím còn sót lại ngày
hè, thì anh kéo tôi ra một vườn hoa gần đó, say sưa nói về một thị trấn trong
tương lai của Sóc Sơn, sẽ là một đô thị vệ tinh của thủ đô Hà Nội. Tôi có nghe
mang máng về điều này, trong Quy hoạch chung xây dựng thủ đô đến năm 2030,
nhưng đó là câu chuyện của 15 năm sau. Tôi than còn lâu, thì anh Tú lại nói,
chúng tôi đã bắt đầu rồi. Vừa đi, anh vừa say sưa nói về những công trình mới của
thị trấn. Những công trình biệt thự đang hình thành, một khu hành chính mới đã
hoạt động bề thế để đón chờ một sự chuyển động mới của thế kỷ.
Thế rồi anh lại chỉ về con đường Núi
Đôi, rồi nói đó là trục đường chính của một đô thi tương lai. Nó sẽ ngày một
xanh hơn, theo thời gian tạo nên vẻ nên thơ cho mọi con đường hướng tới một cửa
ngõ phía Bắc thủ đô. Anh còn cho biết Sóc Sơn sẽ khai thác tiềm năng cảng Hàng
không Quốc tế Nội Bài, kết hợp với hành lang kinh tế xuyên Á, gồm Côn Minh-Hà Nội-Quảng
Ninh. Cùng với đó khai thác vùng du lịch cảnh quan núi Sóc và chân núi Tam Đảo…Thì
ra con người mơ mộng là đây. Một hiện thực hay một viễn cảnh đang hình thành, nếu
thiếu đi những tâm hồn lãng mạn. Tôi còn hay tin, vị chủ tịch thị trấn sinh năm
1971 này, có thời kỳ làm Bí thư huyện Đoàn và Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên
Sinh viên đã khởi động rất thành công phong trào hiến máu của tuổi trẻ Sóc Sơn.
Phong trào luôn luôn vào loại dẫn đầu thành phố từ hàng chục năm nay…
Sau khi dẫn chúng tôi đi thăm một số nhà
Văn hóa của các cụm dân cư, anh Tú dừng lại bên con đường sắt đi qua thị trấn,
rồi nhìn lên đỉnh núi Đôi, với ánh mắt xa xăm. Lát sau anh khoát tay, sôi nổi
nói con đường màu xanh từ đây sẽ con đi tiếp tới nhưng khu công nghiệp sạch, tới
trung tâm y tế và tới khu Đại học tập trung của thủ đô. Đó là con đường lãng mạn
đầy hiện thực hiện lên trước mắt tôi. Hàng vạn sinh viên học sinh sẽ đi trên
con đường màu xanh này. Chỉ nay mai thôi, những bài ca tình yêu tiếp tục ngân
vang. Tôi nghe anh Tú nói và tự mở ra một giấc mơ cho 15 năm của mình trên con
đường Núi Đôi dưới ánh nắng vàng như mật rọi xống con đường. Một tiếng còi tàu
hú lên đi về phương Bắc. Tôi bồi hồi nhìn lên ngọn núi Đá Chồng phía xa; ở đó bức
tượng đồng Thánh Gióng cưỡi ngựa bay lên với giấc mơ mầu xanh…
Vương
vấn quanh chuyện tình Núi Đôi
Ngày nay ai cũng rõ câu chuyện có thật
qua sự miêu tả trong bài thơ Núi Đôi của cố thi sĩ Vũ Cao, viết năm 1956. Nhưng
thực ra ông Vũ Cao không hề biết người nữ liệt sĩ Trần Thị Bắc đã có chồng, mà
ông chỉ nghe câu chuyện cô hy sinh khi bị sa vào tay giặc. Nhưng chuyện tình của
cô gái mà nhà thơ viết ra với những ký ức sâu sắc và cảm động lại ứng nhập với
mối lương duyên có thật trong cuộc sống thực tiễn. Hai mươi năm sau, ông Trịnh
Khanh, chồng của cô Trần Thị Bắc tìm đến nhà thơ để cám ơn, vì đã viết hộ lòng
mình nỗi xúc động sâu sắc với người vợ chỉ sống được với ông có hai ngày nên
nghĩa phu thê.
Ông Khanh kể, tình yêu ở tuổi đôi mươi,
mười tám quả là hết sức lãng mạn. Tất cả đều dành cho đất nước. Hai người gặp
nhau ở vùng tự do, tình yêu đã nảy sinh giữa người chiến sĩ và cô y tá ngày ấy.
Sau vài năm, hai người đã làm lễ cưới và sống bên nhau được đúng hai ngày, thì
phải chia tay. Nữ quân báo Trần Thị Bắc trở lại Núi Đôi hoạt động. Còn anh lính
trẻ Trịnh Khanh lên đường vào chiến dịch. Lúc này chiến dịch Điện Biên Phủ đã
nóng lên từng ngày. Tất cả dành cho tiền tuyến và cuộc chiến đấu giải phóng dân
tộc, thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp. Nhưng ai ngờ chỉ ít ngày sau đó nữ
chiến sĩ Bắc đã bị rơi vào tay giặc và dũng cảm hy sinh để bảo vệ đồng đội, vào
ngày 21-3-1954, khi vừa tròn 22 tuổi.
Thời gian trôi qua, tình cảm và hình ảnh:
“Núi vẫn đôi mà anh mất em” đã dần dịu
bớt nỗi nguôi ngoai, sau đó vài năm, anh bộ đội Trịnh Khanh đã xin phép gia
đình vợ đi bước nữa. Và, có điều thú vị đã diễn ra, chính mẹ cô Bắc đã cùng với
mẹ đẻ của anh cùng đi hỏi vợ cho anh tận bên thôn Hậu Dưỡng, xã Kim Chung, huyện
Đông Anh. Mọi người trong gia đình cô Bắc vẫn coi ông Khanh là người nhà và rất
quý mến nhau. Hàng năm đến ngày giỗ cô Bắc, vợ chồng ông Khanh vẫn về phúng viếng
và chăm nom mộ chí. Giờ tuy đã bước sang tuổi 80, nhưng ông Khanh vẫn nhớ như
in những câu thơ ấn chứa nỗi lòng, khi thẫn thờ nghe tin vợ mới cưới của mình
đã chết trong tay giặc. Nhiều lúc ông vẫn đọc một mình để tự trong trái tim
mình tưởng nhớ đến người mình yêu đã hy sinh một cách vẻ vang: “ Nhớ nhau anh gọi em đồng chí / Một tấm lòng
trong vạn tấm lòng / Anh đi bộ đội sao trên mũ / Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
/ Em sẽ là hoa trên đỉnh núi / Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”
Thị
trấn bay
Tình cờ chúng tôi gặp được ông Thu, một
cựu chiến binh ở ngay chân núi Đôi. Gia đình ông mở một quán giải khát bên đường
nhìn lên đỉnh núi vẫn còn thấy rõ mấy đồn bốt của giặc Pháp cũ. Ông cũng đã từng
tham gia công tác trên huyện Sóc Sơn và cũng là người có nhiều trải nghiệm. Những
câu chuyện của ông về thị trấn cũng không kém phần lãng mạn. Ông tự ví thị trấn
Sóc Sơn như có cánh vậy, chả mấy chốc mà sẽ bay cao, bay xa. Tôi chuốc một chén
rượu và khen ông thật bay bổng và rất yêu con phố của mình; thì ông bất chợt
nói oang oang, chứ không à xưa bay cao đã có Thánh Gióng làm nền tảng và đã tạo
nên vẻ đẹp diệu kỳ của đất nước; Còn nay tại sân bay Nội Bài, thuộc Sóc Sơn,
nơi cất cánh của hàng ngàn chuyến bay xa, bay cao. Đó chính là ước mơ có cánh của
Sóc Sơn mà…Ông nói như không dừng với cảm xúc thăng hoa của mình, rồi cười lớn.
Rượu không thể nói thay đến độ mơ mộng như thế được. Phải nói là tôi thấy vô
cùng lạ bởi sức liên tưởng phong phú của người lính già này. Ông lui về ở ẩn dưới
chân núi, nơi cuối cùng của con đường thị trấn mầu xanh.
Lúc này một người bạn, cùng sinh hoạt hội
cựu chiến binh huyện, với ông Thu bỗng ngâm nga mấy câu thơ mới viết: “Chiều trung du đã một ngày biệt ly / Nay trở
lại thấy trời xanh, xanh quá / Lại chợt nhớ một thời trai trẻ / Một thế hệ ngã
xuống đất này cho xanh mãi một chiều trung du”. Thế rồi bỗng dưng ông ấy đứng
dậy và đi về phía một con đường nhỏ bên chân núi Đôi. Lúc này anh Tú đi theo và
chỉ cho tôi đó là con đường đang mở rộng và cho lát bê tông dẫn về làng Xuân
Đoài. Nơi đó có nẻo đường dẫn đến mộ nữ liệt sĩ Trần Thị Bắc.
Chúng tôi chậm rãi đến bên ngôi mộ nhỏ
bé nhưng vẫn còn ấm chân hương. Có lẽ người trong làng vẫn thắp hương cho cô Bắc
đều đặn hàng ngày. Nhìn con đường thị trấn xanh mươn mướt từ xa, rồi lại nhìn
lên hai đỉnh ngọn núi Đôi, tôi bỗng thấy hai người chiến bình già kia nói đều
đúng, một là đã có những thế hệ ngã xuống để cho một màu xanh bất tử cho quê
hương; và hai là ở giữa con đường Núi Đôi, thị trấn Sóc Sơn đang cất cánh bay
lên trong nỗi khát khao của tình yêu.