Nghe tiếng ve kêu, hè
đã vắt vẻo trên đỉnh Mẫu Sơn. Con đường 237A bắt đầu thể hiện sự già nua với những
nếp nhăn theo thời gian. Thật chẳng may lần này chúng tôi đi nhiều đoạn thanh
chắn dọc con đường để ngăn chặn tai nạn đã bị hỏng, gãy và sụt lở theo vách
núi. Nhiều con xe bò đúng như rùa chẳng sai tí nào. Có khúc đường bị sạt co lại
chỉ còn độ hơn 2m, nom thấy vực mà rùng mình. Vậy cuối cùng chúng tôi đã vượt
15 cây số lên tới khu du lịch Mẫu Sơn.
Mẫu Sơn ngày không băng
tuyết
CHUNG
TỬ
Nghe
chuyện cổ tích trên “núi Cháu”
Không ít người cho là khu du lịch Mẫu
Sơn chẳng có gì khác so với dăm năm trước. Vẫn mấy quầy hàng sản vật hoa quả và
măng ớt; vẫn chỉ một phản bán thịt lợn quay xuất hiện vào khoảng 9 giờ hàng
ngày; và lại một nhóm năm, ba phụ nữ người Dao lên bán mật ong và thuốc lá rừng.
Quanh quẩn chẳng có gì mới ngoài một khu nhà tắm bài thuốc lá gồm 36 loại thảo
dược…Ai lên đây cũng giống nhau, ngắm quang cảnh, chụp ảnh rồi về, coi như đã
lên đỉnh núi Mẫu Sơn. Nhưng bất ngờ lần này, tôi phát hiện ra có một địa chỉ chụp
ảnh dịch vụ lấy ngay ở chính cửa trạm khí tượng ở giữa khu du lịch.
Tôi tò mò bước vào hỏi thăm mấy người
làm nghề đo mây gió ở đây. Hai bạn trẻ, Hùng và Thái rất vui vì có khách tới
thăm. Bởi lẽ chả mấy ai rẽ vào với họ cả. Mọi người chỉ đều mải ngắm núi non
hay tháp truyền hình cao chót vót. Hỏi về tuyết đổ về hồi tháng hai, Hùng trả lời
tôi Mẫu Sơn không hề có tuyết cho dù nhiệt độ xuống tới âm 3 độ mà chỉ có băng,
chứ không như ở Sa Pa, thường có tuyết ngay khi mới ở không độ. Nói rồi anh giải
thích cho tôi biết vì chế độ khí hậu mỗi nơi một khác, nhất là trong khi độ cao
ở đây chưa đầy 1000m. Tôi ngạc nhiên, khi anh chỉ lên hai đỉnh núi cao trước mặt
nói, bên phải là núi Cha, còn bên trái là núi Mẹ (Đó mới là đỉnh Mẫu Sơn cao
hơn 1500m). Rồi anh nói mặt bằng toàn khu du lịch này chỉ là đỉnh của núi Cháu
thôi. Cô bạn đi cùng tôi tròn mắt vì thấy lạ. Chúng tôi thắc mắc vì sao người
dân ở đây lại gọi tên núi có vẻ như trong một gia đình như thế, thì Hùng chỉ ra
ngoài, trên một con dốc nhỏ; ở đó có một người đàn ông Dao đang ngồi trầm ngâm
như một pho tượng khắc khổ dưới một chòm mây mỏng còn sót lại giữa ánh nắng mới
bừng lên. Đó là một người kể chuyện cổ tích cho bất cứ ai lên đây và muốn nghe,
vì sao rượu ở trên đỉnh núi này lại ngon và đê mê đến thế.

Tôi bước chân nhẹ nhàng theo làn mây vờn
quanh đến bên ông và ngồi xuống. Tôi lắng nghe chuyện ngày xửa, ngày xưa…Trên
núi có một gia đình sống rất hạnh phúc với một bầy con trẻ. Người chồng khỏe mạnh,
dũng mãnh được nhà vua triệu đi lính để chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Người vợ
xinh đẹp ở nhà tần tảo làm ăn nuôi dậy con cái. Có một kẻ nhà giầu muốn chiếm
đoạt thân xác người đàn bà kia. Nhưng người vợ thủ tiết với chồng, kiên quyết
chống cự và đuổi tên nhà giàu ra khỏi nhà. Sau ba năm đánh thắng giặc trở về,
người chồng bị tên nhà giầu bịa đặt mách
chuyện người vợ ở nhà đã ăn ngủ với một thanh niên trai trẻ tên là Chóp Chài,
thường lên đây làm ăn buôn bán với bà con dân bản. Người chồng mù quáng nổi cơn
ghen, điên rồ hỏi tội và muốn giết chết vợ. Người vợ giải thích rõ ràng, Chóp
Chài chỉ ngủ nhờ trong bếp mỗi khi lỡ việc vì bận rộn, không xuống núi được vì
tránh hổ beo, gió bão. Tất cả bà con trong bản có thể làm chứng. Nhưng người chồng
không tin và đã ra tay giết vợ. Sau đó người chồng mới nhớ ra và kiểm tra lại vạch
đánh dấu dưới bụng vợ; Thấy vẫn còn nguyên, mới hay mình đã gây ra cái chết oan
ức cho người vợ chung thủy của mình. Người chồng đã khóc ba năm liền và xây miếu
để lễ cầu vợ tha tội cho mình…Giọng người kể chuyện nghẹn đi vì xúc động. Một
lát sau ông mới thì thầm rằng, oan hồn của người vợ bay lên tận trời thưa với
Ngọc Hoàng mọi chuyện. Ngọc Hoàng động lòng đã cho bày tiên nữ xuống minh oan
cho người vợ. Mọi chuyện đúng như sự thực, khi họ thấy người chồng khóc ròng rã
suốt ngày đêm, vì nỗi đau thương và ân hận trong lòng. Người chồng có nguyện vọng
lấy cái chết để đền bù tội lỗi và chỉ mong sau này cả nhà được sum vầy và hạnh
phúc như xưa.
Ước muốn cuối cùng của người chồng đã
được toại nguyện. Sau này cả gia đình hóa thành dãy núi dằng dặc điệp trùng.
Hai ngọn núi cao nhất được gọi là núi Cha và núi Mẹ còn lại tính từ cao xuống
thấp là các núi con và núi Cháu là vì vậy. Tôi ngước nhìn về hai đỉnh núi cao
trước mặt với những làn mây mù đậm đặc. Có thể trời đang mưa trên đó. Nước mắt
bao đời của đôi vợ chồng không bao giờ ngừng chẩy. Hơn chục con suối trên núi
cao luôn như thác chảy tụ về con sông Kỳ Cùng xuôi về phương xa. Lúc này, bất
ngờ ông già kể chuyện chỉ về phía tây xa xa, có một ngọn núi cao thứ ba tiếp
dãy núi Mẫu Sơn; rồi kể đó là ngọn núi Chóp Chài, chính là người thanh niên
ngày nào được giúp đỡ cũng đã đau khổ vì mình mà dẫn đến cái chết thương tâm của
người vợ kia. Chàng thương cảm đến chết và hóa ngọn núi có cái chóp rất dễ nhận
ra.
Mọi
thứ sinh ra từ sự bất tử
Khi chúng tôi xuống một bản người Dao ở
gần chân núi, mới hay họ còn kể rằng, hoa đào trên núi có mầu đỏ thắm, và thơm
ngát vì đất nuôi cây đã thấm máu oan khuất của người đàn bà kia mà thành. Nên
khi hết hoa, kết quả, trái đào cũng có mầu đỏ tươi như trái ớt, khi to dần mới nhạt
thành mầu hồng là vì vậy. Nó đẹp và thắm hơn bất cứ đào nơi đâu, nên khoảng mấy
năm nay có người tận Hà Nội cũng lên trên này mua đào cây về chơi tết.
Chưa hết, một cô gái trong bản còn đưa
ra một sọt chanh cho tôi xem, rồi nói đó là hình ảnh những giọt nước mắt đau khổ
của người chồng kia mà thành. Khóc ròng ba năm liền, nước mắt người chồng tuôn
trào như chín dòng suối chảy từ trên núi xuống. Những hạt nước mắt nặng tình và
khổ đau đã kết thành những hạt to tròn tạo giống cho một loại chanh nhỏ, thơm
ngon hơn nhiều loài chanh ở các nơi. Nó trở thành một loại đặc sản chỉ có ở Mẫu
Sơn.
Tôi
còn biết nước để nấu rượu của bà con người Dao ở đây cũng nhờ nguồn nước suối
trong này. Họ nói đó là một thứ rượu được nấu từ tình yêu thương vô hạn và từ nỗi
đau của cuộc đời…Có thể đó chỉ là sự trùng hợp có lý, nhưng để nước được tinh
khiết, họ thường lấy trên đầu nguồn từ tinh sương khi bình minh vừa tỏa rạng.
Rượu được chưng cất với gạo nếp nương còn nguyên vỏ cám và men lá được ủ kỹ qua
mấy ngày đêm. Men lá là một bí truyền ở nơi đây. Thơm và gây vị ngọt dịu nhưng
chỉ ba chén thôi là biết tay nhau ngay. Nghĩa là khi đó không còn biết trời đất
là gì nữa. Chỉ còn là ca hát và những điệu “Páo Dung” của tình yêu thương, cùng
những điệu múa cuồng nhiệt trong ngọn lửa bập bùng cháy qua đêm.
Chuyện
sơn đầu và món thịt treo
Chuyện này do bà Dương Múi Phan ở thôn
Khuổi Lầy, xã Mẫu Sơn, nhưng thuộc huyện Lộc Bình kể, khi chúng tôi mò đến bản
để tìm món ăn khoái khẩu đặc trưng nhất của người Dao, đó là món thịt treo bếp.
Trước đây ắt nhiều người ngỡ chỉ là miếng thịt sống còn tươi được treo trên gác
bếp lâu ngày mà thôi. Nhưng nghe bà Phan kể mới biết không phải đơn giản như thế.
Thịt được cắt ra từng khúc dài, đem xát muối rồi đặt trong thùng theo từng lớp.
Mỗi lớp lại rắc muối lên và tưới thêm một lượt rượu ngon. Ủ trong một đêm, cho
đến khi thịt ngấm kỹ rồi mới lấy lạt buộc treo lên bếp lửa. Hàng ngày phải cho
củi nhiều để ngọn lửa bốc cao nướng cho thịt chín khô dần. Đến khi có mầu vàng
là có thế lấy ăn. Nhưng trước khi ăn, phải nướng lại miếng thịt, rồi rửa sạch bằng
nước nóng. Thịt treo bếp tới hai năm những vẫn thơm ngon vì phương thức ướp cổ
truyền như vậy. Quả nhiên khi ăn với xôi thì thôi rồi, thịt thơm ngọt đậm vì muối
và rượu vương vấn theo thời gian.

Còn một chuyện rất xưa, nhưng lại rất
mới lạ với tôi là chuyện người phụ nữ Dao ở đây vẫn còn giữ tục sơn đầu. Chính
vì thế có nơi còn gọi người Dao với cái tên xưa là Mán sơn đầu. Về chuyện này
bà Phan cũng nói khá tỉ mỉ vì chính bà đã nửa thế kỷ nay vẫn sơn đầu, thường cứ
ba đến bốn tháng một lần. Nói rồi bà đi lấy cho tôi xem những dụng cụ như lược,
nhíp (gọi là Mù Chẳn), chiếc lông nhím và cục sáp ong. Bà nhớ là trước khi sơn
đầu bà phải gội đầu bằng lá thơm cho mềm tóc. Sau đó hong khô rồi quấn tóc
thành búi lên đỉnh đầu.
Nhưng việc sơn đầu cho bà phải là một
người khác giúp đỡ mới đẹp được. Bà quan niệm theo đúng nguyên tắc của người
Dao: “Mười phần đẹp thì chín phần do
trang điểm”. Sau khi nhổ hết lông tơ ở trên trán, trên tai rồi mới dúng lược
vào bát sáp ong đã được nướng cho chảy mềm ra; Vừa chải vừa miết cho đều mỗi lọn
tóc nhỏ dính bết lại, theo thứ tự từ trên xuống dưới. Mỗi lọn tóc được chải sáp
bết lại sẽ được cuốn lên quanh đầu, cũng theo thứ tự đều đặn, ngay ngắn từ trên
xuống dưới. Việc sơn đầu như vậy khá tốn thời gian nhưng họ quan niệm, tóc như
thế mới óng ả đáng mặt cho các chàng trai ngó mắt tới. Chính vì thế phụ nữ Dao ở
đây đội mũ cũng khác lạ như có mái che trên đầu bằng vải đỏ. Tôi cầm chiếc lông
nhìm lên tò mò hỏi để làm gì, thì bà Phan nói để gãi đầu mỗi khi ngứa. Bà còn
giải thích sau khi đã sơn đầu thì không được gội hàng ngày nữa mà phải ít nhất
ba tháng sau mới dỡ ra tắm gội, rồi sơn lại. Nếu đi làm bị bụi bẩn thì chỉ việc
cắt quả chanh sát lên rồi lấy khăn lau qua là tóc sạch bóng ngay.
Thế mới biết trong cánh rừng bạt ngàn
và âm u trên dẫy núi Mẫu Sơn này còn bao điều còn ẩn dấu. Ông Đặng Tăng Phúc
trên khu du lịch nói, còn trăm thứ mà cánh nhà báo chưa biết, rồi hẹn lần sau
lên ông đưa đi đến bãi đá cổ, đến miếu thờ Mẹ, đi dự lễ cưới người Dao và còn
ăn thịt gà 6 móng nữa chứ. Ôi! Cha… cha thịt nó ngọt thơm, nếu được chấm với
chanh ớt thì mới đã làm sao. Nghe nói cô bạn đi cùng xuýt xoa đôi môi, chắc là
thèm lắm. Thôi đành hẹn Mẫu Sơn trở lại, kẻo không trời sập tối dễ quên nẻo đường
về.