
Những người từng chấm cho Nhã Thuyên – Đỗ Thị Thoan
điểm 10 tuyệt đối, hoàn toàn không ai lên tiếng bảo vệ khi luận văn thạc sĩ này
bị đánh lên bờ xuống ruộng. May quá, nhà phê bình Nguyễn Hoàng Đức phát hiện: “Trong
cả đám rùa im bặt tiếng đó, thì kìa nhảy ra một đệ nhất anh hùng là Ngô Văn Giá
“dám” lên tiếng bảo vệ em học trò của mình. Nhưng anh ta bảo vệ bằng cách gì? Bằng
trí tuệ ư? Phó giáo sư, tiến sĩ mà không nói chuyện trí tuệ thì nói chuyện gì?
Vậy mà cái tưởng là hiển nhiên này lại không đúng, anh ta nói bằng trí khôn che
chắn biện hộ, làm mẽ. Người Trung Quốc có nói: Kẻ trí thì hay trá! Anh Giá đã xử
dụng chính binh pháp này. Tôi sẽ nói điều này không võ đoán mà hoàn toàn dựa
vào văn bản. Ngô Văn Giá viết bài “Luận văn, phê bình luận văn và… Trời ơi, kỳ
án văn chương Nhã Thuyên có tên gọi đàng hoàng, tại sao anh Giá lại dùng một
cái tên xa xôi như vậy? Thực ra đó là cách muốn giải trung tâm, xí xóa, ỡm ờ,
xuê xoa cho qua vấn đề. Viết thế có khác gì khi bàn về vụ cướp nhà băng anh sẽ
viết “Về cửa ra vào, hệ thống điện của nhà kho…” Hoặc về vụ giết người anh viết
“Về dao và súng cùng cơ thể…”
NGÔ VĂN GIÁ – ĐỆ NHẤT ANH HÙNG CỦA “HỘI ĐỒNG CHUỘT”
NGUYỄN HOÀNG ĐỨC
Trước hết tôi xin nói rõ quan điểm của mình: tôi
cũng chẳng thấy thơ của nhóm Mở Miệng có gì hay cả, như họ thừa nhận thơ họ chỉ
là thứ rác rưởi. Nhưng tôi sẵn sàng và luôn sẵn sàng ủng hộ họ theo cách nghĩ
“Mọi cái vĩ đại phải đặt trên sự cực đoan, còn cái vững chắc chỉ đặt trên những
thứ bình thường”. Nhóm Mở Miệng không cách tân bút pháp và tư tưởng, họ chỉ
sáng tạo bằng thái độ muốn quẫy đạp, phản xạ lại thói quen, dùng rác phản lại
rác, thơ họ dù rác rưởi nhưng vẫn còn hơn thơ cứt tươi của đại ca mậu dịch
Thanh thảo “Tôi mơ cứt ngập nhà anh”, và của Phạm Đương ăn cắp cả vương miện
“Giờ thứ 25” đặt lên đầu tác phẩm của mình mà vẫn qua mặt được ban giám khảo cả
sơ lẫn chung, ẵm giải đề huề. Cách tân chưa nói, nhưng về thái độ hay tâm lý
làm thơ, Mở Miệng đã chiến thắng, bằng chứng là có cả nhóm giáo sư tiến sĩ đóng
vai ban giám khảo đã lần theo cái bóng nổi tiếng của họ muốn phết danh cho bản
thân mình, và ăn theo mấy từ “cách tân dữ dội”.
Xưa kia, và cũng theo lẽ thường, người giới thiệu
người khác, người khác kém cỏi thì người giới thiệu phải chịu trách nhiệm. Luận
văn của Nhã Thuyên được điểm mười tuyệt đối, khi bị phế truất, thì ban giám khảo
phải chịu trách nhiệm, một là “mù” không thấy giải, hoặc “giả mù” để trao giải.
Nhưng may quá than ôi, xã hội chủ nghĩa chúng ta lâu nay vẫn có thói quen “bảo
vệ cán bộ”, báo chí có đụng đến hạng đầu đường xó chợ thấp cổ bé họng thì đụng,
chớ có đụng đến thượng tầng kiến trúc mà mang vạ. Cán bộ của ta, ta phải bảo vệ,
thậm chí nếu kỷ luật thì “đá bóng lên trên”, được thăng chức nữa kia. Và vụ Nhã
Thuyên cũng không ngoại lệ, người ta truất luận án của cô, nhưng vẫn để nguyên
cho ban giám khảo được gối cao ngủ kỹ. Thành ra các vị vẫn im hơi tại vị theo lối
“ngậm miệng ăn tiền”.
Trong cả đám rùa im bặt tiếng đó, thì kìa nhảy ra một
đệ nhất anh hùng là Ngô Văn Giá “dám” lên tiếng bảo vệ em học trò của mình.
Nhưng anh ta bảo vệ bằng cách gì? Bằng trí tuệ ư? Phó giáo sư, tiến sĩ mà không
nói chuyện trí tuệ thì nói chuyện gì? Vậy mà cái tưởng là hiển nhiên này lại
không đúng, anh ta nói bằng trí khôn che chắn biện hộ, làm mẽ. Người Trung Quốc
có nói: Kẻ trí thì hay trá! Anh Giá đã xử dụng chính binh pháp này. Tôi sẽ nói
điều này không võ đoán mà hoàn toàn dựa vào văn bản.
Ngô Văn Giá viết bài “Luận văn, phê bình luận văn và…”
Trời ơi, kỳ án văn chương Nhã Thuyên có tên gọi đàng
hoàng, tại sao anh Giá lại dùng một cái tên xa xôi như vậy? Thực ra đó là cách
muốn giải trung tâm, xí xóa, ỡm ờ, xuê xoa cho qua vấn đề. Viết thế có khác gì
khi bàn về vụ cướp nhà băng anh sẽ viết “Về cửa ra vào, hệ thống điện của nhà
kho…” Hoặc về vụ giết người anh viết “Về dao và súng cùng cơ thể…” Vả lại đầu đề
có vài chữ sao lại nói nửa chừng với dấu “…” Đây hoàn toàn là cách ấm ớ như người
Việt bảo:
Người khôn ăn nói nửa chừng
Làm cho kẻ dại nửa mừng nửa lo
Ai là khôn, ai là dại ở đây? Tất nhiên anh Giá cho rằng
học trò của ta thì dại, dân trí của ta thì dại, ta là phó giáo sư mà không khôn
à, vậy thì tại sao lại không làm cho chúng “nửa mừng nửa lo”. Ở đời người khỏe
bắt nạn người yếu. Người khôn giăng bẫy người dại. Nhưng đó là thứ khôn ngoan vặt
vãnh của tâm lý tiểu nông. Còn về đạo đức người đàng hoàng họ phải biết cách
nâng đỡ người khác lên. Mới có vài chữ đã nhi nhoe trí trá để ăn thua đời, thật
là tủi thân cho đám tiến sĩ mậu dịch!
Rồi anh Giá trích dẫn các vấn đề 1,2,3 về học thuật
nghe có vẻ khoa học lắm nhưng kỳ thực là để che chắn câu giờ.
Anh Giá viết “gồm cả tôi và những người đang lên tiếng
phê phán cô ấy) đã hết thời rồi.”
Hết thời ư, sao lại cứ muốn chấm luận văn của người
khác? Câu này còn muốn trá hàng, muốn người ta xuê xoa bỏ qua cho mình, nhưng
trong đó cũng gài luôn một cái giá mặc cả “tôi thì hết thời, nhưng cả những ai
phê phán tôi cũng hết thời nhé”.
Anh Giá viết: “Tôi thích tinh thần trẻ trong lao động
khoa học, trong lao động viết. Họ đọc, học, viết với một tinh thần say mê vô
tư, không vụ lợi, nhằm truy cầu học vấn và tri thức, nỗ lực xác lập tư cách trí
thức của mình. Thế thôi.”
“Tôi thích…” Một vị phó giáo sư sao lại có thể viết
mấy chữ “tôi thích…” trong văn bản liên quan đến danh dự và cuộc đời của người
khác?! Những người mẹ phải rửa đít cho con, không ai thích cả, nhưng đó là bổn
phận phải làm. Một chiếc đầu máy hơi nước xịt ra toàn bụi than, rồi lò nóng chảy,
chẳng có người thợ máy nào thích cả, nhưng xã hội cần nó vì nó giúp ích cho sự
tiến bộ. Một nguyên tử phóng xạ không ai thích cả, nhưng mọi người buộc phải nể
trọng sức mạnh của nó… Đã làm thầy mà vẫn còn “tôi thích…” thì có khác gì mấy đứa
trẻ còn quyệt mũi ở nhà quê?!
Cuối cùng anh Giá bàn đến “Lòng chẳng nỡ”…
Nghĩa là anh bàn đến tình cảm với ý định “một trăm
cái lý không bằng một tí cái tình”. Anh kết thúc bằng câu “Đến đây, tôi thấy
mình nên dừng lại.”
Trời ơi, một nhà khoa học đàng hoàng thì phải trình
bày đến nơi đến chốn, tại sao vấn đề đang diễn giải lại bị cắt cụt ngủn như vậy?
Có phải vì: danh không chính nên ngôn không thuận?! Và có phải cái học của người
Việt vẫn chỉ là thứ đòi làm quan mà chẳng đạt tới sự thấu đáo cũng như trách
nhiệm?!
Người Việt có câu “Trẻ cậy cha già cậy con”, các anh
chưa già mà đã nhận mình hết thời thì có phải muốn phủi tay không? Người Trung
Hoa có câu “một ngày làm thầy một đời làm cha”. Tại sao? Vì cha chỉ là người có
công leo lên giường với dụng cụ truyền sinh. Còn làm thầy thì phải là trí tuệ,
vậy mà anh Giá lại từ chối trí tuệ:
“Khi viết những dòng này, ngay từ đầu tôi tự dặn
mình không để bị rơi vào những tranh cãi (dù là học thuật hay ý thức hệ) đang bị
gây nhiễu.”
Như vậy thì còn nước non gì nữa?! Người đời nói
“thuyền to sóng cả”, hoặc Kinh Phúc Âm có viết: “Kẻ được cho nhiều sẽ bị đòi lại
nhiều”. Thi hào Goethe viết: “Cuộc sống là bổn phận ngay cả khi nó chỉ diễn ra
trong khoảnh khắc”. Đúng vậy, làm giáo sư rồi tiến sĩ, không thể sống ngoài bổn
phận, chỉ muốn chức tước bổng lộc cao, ăn theo người nổi tiếng để tôn vinh
mình, đến khi gặp bất lợi lại ù chạy, phủi tay trong im lặng. Nhưng cuộc đời
đâu có dễ chiều trí khôn của đám hủ nho, tưởng dùng binh pháp sống hơn đời ư?
Hãy nhìn Trung Quốc cả nghìn năm dậm chân tại chỗ không tiến bộ, đến mức lãnh tụ
Tôn Trung Sơn bảo “Người Trung Quốc chưa hề có các cuộc cách mạng về tư tưởng,
tôn giáo và tự do, chỉ có các cuộc đánh lộn giành đất đai, ghế và đàn bà”. Còn
giới trí thức Việt Nam thì sao? Tìm một mống học đến đầu đến đũa cũng khó. Ngay
như anh Ngô Văn Giá kia, viết có một bài thanh minh thanh nga vài trăm chữ đã
dùng trí khôn để thập thò “tôi thấy mình nên dừng lại.”
Nhưng đâu có dễ vậy, mũi tên đã bắn đi chẳng lẽ thu
hồi được lại, danh dự đã phai chẳng lẽ thu về theo bảo bối “ăn nói nửa chừng”.
Anh Giá cũng như đồng đội của anh, phải có trách nhiệm trình bày luận văn của
Nhã Thuyên hay ở chỗ nào, tại sao nó lại được điểm 10 tuyệt đối? Nếu không vậy,
các anh có thể khen hay chê bất kể ai mà không cần bằng chứng à? Qua đây, tôi
cũng xin thông điệp với anh Giá rằng: người như anh, và những người giống anh
chưa hề có bất kỳ một khả năng gì để tiếp cận văn chương đâu. Chưa nói đến sáng
tạo, cái công tâm đầu tiên không có! Đi dọc cả đời văn mà vẫn nói chuyện “văn học
bụng – kiểu tôi thích”… thì hy vọng gì con thuyền nan bé nhỏ bản năng đó có thể
cập được bất kỳ bến cảng nào của đại dương. Sau kỳ án Nhã Thuyên, các anh muốn
chui hang dế ẩn nấp ư? Tôi sẽ đổ nước vào hang cho đến lúc các vị phải chui ra.
Nào xin mời những chú “dế”, một là chui ra hay rúc đầu vào?!
Vì sao PGS-TS VĂN GIÁ bị Nhà phê bình NGUYỄN HOÀNG ĐỨC giáng cho một
búa? Xin mời đọc nguyên văn bài viết ỡm ờ sau:
LUẬN VĂN, PHÊ BÌNH LUẬN VĂN VÀ…
VĂN GIÁ
Thưa rằng, tôi là người có liên đới đến câu chuyện luận văn Thạc
sĩ của Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) đang gây nóng trên văn đàn hiện nay. Nói là
liên đới vì: thứ nhất, tôi là thành viên trong Hội đồng chấm luận văn này; thứ
hai, tôi được/bị một vài bài viết của người này người khác nhắc đến trực tiếp,
hoặc gián tiếp (khi quy trách nhiệm cho Hội đồng). Cho nên tôi thấy có trách
nhiệm phải nói đôi lời.
1. Tất cả
các ý kiến phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan hiện nay (như đang thấy trên một
số tờ báo chính thống) đều là của những người hoạt động ngoài lĩnh vực học
đường. Họ đọc luận văn này trong tâm thế của người ngoài cuộc. Nếu ai từng kinh
qua hoạt động đào tạo ở nhà trường đều biết mỗi khi chấm khóa luận, luận văn,
luận án của sinh viên/học viên/nghiên cứu sinh bao giờ cũng phải giải quyết hài
hòa ba yêu cầu chủ yếu: (1) các phương pháp và thao tác nghiên cứu; (2) các kết
quả nghiên cứu; và (3) triển vọng học thuật của người nghiên cứu được
bộc lộ qua toàn bộ quá trình thực hiện đề tài. Với yêu cầu (1), các phương pháp
và thao tác nghiên cứu nhằm trang bị cho người tập làm khoa học biết được với
đối tượng ấy phải có phương pháp và thao tác nghiên cứu nào phù hợp và hiệu
quả; mỗi phương pháp, thao tác ấy là gì và ứng dụng như thế nào. Với yêu cầu
(2) chính là cách thức triển khai nội dung văn bản khoa học, logic của các
chương tiết cùng những kết quả nghiên cứu đạt được. Còn yêu cầu (3) cũng hết
sức quan trọng, nhằm đánh giá được năng lực tư duy, độ mẫn cảm khoa học, khả
năng nghiên cứu độc lập hoặc hợp tác… của người nghiên cứu.
Như vậy, điểm số/thứ bậc của một bản luận văn/luận án không phải
là sự chia đều của 3 yêu cầu đó, mà tùy từng trường hợp có sự phân lượng cần
thiết. Làm thạc sĩ là bước đầu học cách nghiên cứu (làm xong tiến sĩ cũng mới
chỉ được xét nhận là người có khả năng nghiên cứu độc lập). Nên không thể đòi
hỏi những kết quả khoa học ở các luận văn của họ luôn luôn đúng. Nó cho phép độ
dung sai nhất định, với điều kiện cái sai đó cho thấy nỗ lực tư duy của người
làm khoa học. Đó là những cái sai lương thiện, có khả năng thúc đẩy tư duy để
hướng tới cái đúng, cái khác. Nó ngược lại với những cái đúng nhạt nhẽo và vô
ích. Ở đời không thiếu gì những cái đúng vô ích. Có thể trong luận văn của Đỗ
Thị Thoan có những chỗ chưa kín kẽ, chưa thỏa đáng, nhưng đã thấy rõ một nội lực
tư duy khoa học văn học đầy triển vọng.
2. Đỗ Thị
Thoan là một người trẻ. Khi bảo vệ luận văn, cô ấy mới 24 tuổi. Cô ấy có một
tài sản vô giá là tuổi trẻ mà chúng ta (gồm cả tôi và những người đang lên
tiếng phê phán cô ấy) đã hết thời rồi. “Khi người ta trẻ” (tên một truyện ngắn
của Phan Thị Vàng Anh) mà! Một người trẻ có cái say mê, háo hức, có cái khao
khát khẳng định cá tính, bản ngã của mình. Đỗ Thị Thoan trong khi làm thạc sĩ,
cô ấy đã/đang là người viết - người viết trẻ. Người viết nào cũng có cái khao
khát mạnh mẽ và chính đáng khẳng định tiếng nói riêng của mình. Huống chi đây
lại là người viết trẻ. Vì thế cái nhiệt tâm khẳng định tiếng nói của một chủ
thể ý thức, chủ thể viết là một nhu cầu chính đáng và cần được tôn trọng.
Tôi thích tinh thần trẻ trong lao động khoa học, trong lao động
viết. Họ đọc, học, viết với một tinh thần say mê vô tư, không vụ lợi, nhằm truy
cầu học vấn và tri thức, nỗ lực xác lập tư cách trí thức của mình. Thế thôi. Nó
ngược lại với không ít người trẻ (nhất là trong cơ quan công quyền) hiện nay:
xa rời chuyên môn, lười đọc sách, không có khát vọng tri thức, chuyên tìm cách
lấy lòng cấp trên hòng kiếm chác chức tước, địa vị, mau chóng biến thành một
thứ công chức nô bộc hoặc thư lại. Thử hỏi, liệu xã hội có thể trông chờ được
gì vào những người trẻ như vậy.
Đỗ Thị Thoan là một người có khao khát tri thức, dấn thân vào con
đường chữ nghĩa, từ bé đến lớn chỉ biết có việc học và học, ngoài ra không biết
làm gì khác. Một người như vậy bị quy cho cái tội phản động, chống đối chế độ.
Hỡi ôi, làm kẻ phản động chống đối chế độ chả lẽ lại dễ đến thế được sao!?
Khích lệ những người trẻ tuổi lao động, học tập và sáng tạo mới
khó, chứ quy kết họ thiết tưởng không khó lắm, nhất là trong bối cảnh hiện nay.
3. Khi
viết những dòng này, ngay từ đầu tôi tự dặn mình không để bị rơi vào những
tranh cãi (dù là học thuật hay ý thức hệ) đang bị gây nhiễu. Tôi cứ nghĩ đến
một luận bàn triết học của nhà triết học F. Jullien về Mạnh Tử, trong đó ông có
phân tích một chiêm nghiệm của Mạnh Tử như sau: [“Người ta ai cũng có lòng
thương xót, lòng chẳng nỡ đối với việc này hoặc việc khác”, từ đó Mạnh tử suy
ra: đem tấm lòng chẳng nỡ ấy (đối với người khác) phổ cập đến những điều mình
còn nỡ (còn đang tâm đối với người khác), đó là “nhân” vậy] (Xác lập cơ sở cho
đạo đức của F. Jullien, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, NXB Đà Nẵng, 2000,
tr12).
“Lòng chẳng nỡ” (ngược lại với “đang tâm”) không phải là một khái
niệm triết học, mà là một kinh nghiệm tồn tại. Hay nói cách khác, nó là một ý niệm
thuộc về minh triết. Mà minh triết sinh ra không để cãi lý. Nó để cảm thấu. Và
một khi đã cảm thấu được, nó có khả năng “sàng lọc các lý lẽ” (F. Jullien).
Đến đây, tôi thấy mình nên dừng lại.
Ngày 16.7.2013